Lắm lúc ham hiện đại với hậu hiện đại, mà chúng ta quên đi cổ điển. Cổ điển xa tít và cả cổ điển mới đây. Ta than phiền thế hệ trẻ bỏ quên quá khứ, cả quá khứ gần để chạy theo mốt thời thượng phương Tây. Trên báo chí, trên truyền thanh truyền hình, trong lớp học, ở giảng đường, ta than phiền cả trên các diễn đàn nữa. Than phiền, thảo luận hay tranh cãi để không làm gì cả. Thậm chí không đưa ra được chuẩn nào đủ thuyết phục cho thế hệ con cháu ngồi lại và lắng nghe ta.
Người Chăm An Giang. Ảnh: Internet |
Thử ngược thời gian lên đường truy tìm.
Ở một dân tộc có dân số trung bình, cư trú tại phần “giữa” đất nước: miền Trung Việt Nam; đời sống trung bình, nếu so với cả nước không giàu và cũng không nghèo, sở hữu nền văn minh phát triển sớm nhưng đã mai một nhiều…; nghĩa là đa phần đều trung bình, là dân tộc Chăm.
Thêm, đó là dân tộc có tôn giáo khá cổ sơ: Ấn Độ giáo, có chế độ gia đình tương đối khác lạ: mẫu hệ, có chữ viết bản địa rất sớm: thế kỷ thứ IV, do đó họ sở hữu nền văn học viết sớm và phong phú.
Từ chế độ gia đình mẫu hệ ấy, từ nền văn học viết cổ điển ấy bật lên BA KHÔNG: Cộng đồng không có người ăn xin, không có hiện tượng đĩ điếm, và [ở thập niên 40 của thế kỷ XX trở về trước] không có nạn mù chữ trong giới đàn ông.
Không ăn xin nói lên tinh thần tự lập. Không đĩ điếm nói lên cách [kiếm] sống lương thiện. Không mù chữ (tri thức) liên quan đến khả năng để biết sống ở đời.
1. Người Chăm dạy chữ cho nhau theo cách cha dạy cho con, ông truyền cho cháu, hay thầy dạy cho trò, vài trò hoặc có khi mỗi một trò, nhưng Chăm chưa bao giờ mù chữ. Tệ thế nào cũng phải có “Akhar K wak di tauk – Chữ K treo đít”, mới yên tâm.
Thuở còn bé, tôi hay la cà với các cụ Chăm ở đám lễ các loại, tôi chưa thấy “cụ già” Chăm nào “dốt” chữ, không ai không đọc được ariya (thơ, trường ca). Lạ! Mà Chăm có trường lớp nào dạy đâu. Nhiều cụ, sau buổi cày mệt nhọc, vẫn cầm Akayet Dewa Mưno lên ngâm ngợi. Đám tang, đám cưới, họ đua nhau lấy sách ra pacauh xakarai (đấu lí).
Đâu là nguyên do? Nó xuất phát từ Minh triết Chăm.
Đàn ông Chăm là dân tộc yêu chữ, mê tín chữ và cuồng chữ. Đố ai dùng giấy có chữ Chăm làm giấy loại hay giấy vệ sinh? Không đốt, không xé… Mê tín chữ, Chăm có khuynh hướng xem chữ là của Thần Yang, còn người viết nên tác phẩm là thần chứ không là người phàm. Akayet Dewa Mưno là do ông thần viết, hay Ariya Glơng Anak được Ginwơr Hwơr viết từ lâu lắm để đoán chuyện hôm nay.
Ariya Patauw Adat Likei – Gia huấn ca dạy Đàn ông Chăm viết: “Dwah akhar caik di rup – Tìm chữ cất vào mình”. Chăm không nói tìm của cải, vàng bạc mà là – CHỮ. “Chữ” chính là tri thức, là vũ khí cho đàn ông Chăm lăn xả vào cuộc chiến ngoài biển đời. Không có chữ, ông thành vô căn, vô dụng, vô loại, đủ thứ vô. Cao hơn, chưa thành NGƯỜI. Hỏi, có ai không muốn thành người?
2. Đĩ điếm, định nghĩa một cách đơn giản nhất, là tự nguyện dâng trao tình dục để nhận về tiền bạc, bằng cấp, địa vị… hay lợi lộc nào đó bất kỳ.
Chăm thuộc chế độ gia đình mẫu hệ. Có thể có vài điều chưa hợp lý ở chế độ gia đình này, nhưng chính nó đã giữ cho xã hội tránh bị đổ vỡ, trong suốt thế kỷ XX đầy biến động. Chuyện Chăm không hiện tượng đĩ điếm là một. Nếu rủi ro điều đó xảy ra, chính dòng họ mẹ Kut hay Ghur của cô/ chị sẽ đi tìm, lôi cô/ chị về.
Likei di bơng mưsuh, kamei di bơng mưnưk‑
(Phận của đàn ông là chiến đấu/ Phận của đàn bà là sinh nở)
(Cũng có thể hiểu: Đàn ông ở vị thế chiến đấu, đàn bà ở vị thế sinh đẻ).
Lời nói mộc mạc nhưng rạch ròi này làm sụp đổ mọi phê phán ấu trĩ về chế độ mẫu hệ Chăm. Phận của đàn bà là sinh nở, vậy hãy để cho họ cai quản gia đình. Đây là quyền lợi và nghĩa vụ cao cả của họ. Riêng phía nam giới, hãy trang bị cho họ đầy đủ vũ khí sắc bén để họ lăn xả vào cuộc chiến lớn hơn, khốc liệt hơn. Nói khác đi, hãy để cho họ toàn quyền cai quản xã hội.
Bạn là kẻ CAI QUẢN gia đình: quản lí của cải, điều tiết chi tiêu, giữ gìn sự ổn định của gia đình – gia đình của bạn, LÀ chính bạn. Muk Thruh Palei - Bà Tổ Quê hương dạy thế. Thì làm sao bạn có thể gây tổn hại đến nó cơ chứ. Mà theo truyền thống Chăm, tiếng Đĩ làm tổn hại hàng đầu trong mọi thứ tổn hại. Chẳng những tổn hại thôi, mà là thứ vứt đi.
3. Chính sự phân công rành mạch đó tạo nên thế cần bằng của xã hội mẫu hệ Chăm. Đàn ông cai quản xã hội, đàn bà quản lý gia đình. Ai có phận sự nấy. Nên không có chuyện sống dựa dẫm, nói chi ăn mày.
Ăn mày! Cộng đồng mẫu hệ Chăm không bao giờ nghĩ đến nó, chứ đừng nói chấp nhận hay không? Bà quản lý gia đình, bà không thể rời bỏ gia đình hay làng bản lang bạt trên đường ăn xin là chuyện không bàn. Riêng ông, gia đình hy sinh mọi thứ để trang bị cho ông vũ khí, vũ khí trí tuệ.
Ông phải biết vận dụng nó để chiến đấu với đời: kinh tế, văn hóa, chính trị xã hội… Nếu vũ khí kia có cùn nhụt, hay nói theo ngôn ngữ hiện đại, khi nó lỗi thời hay lạc hậu, ông cần tự trang bị vũ khí mới để lăn xả vào cuộc chiến mới. Còn không, ông chết đi là vừa.
4. Trở lại với hiện tượng BA KHÔNG ban đầu:
Không ăn xin nói lên tinh thần tự lập
Không đĩ điếm nói lên cách [kiếm] sống lương thiện
Không mù chữ (tri thức) liên quan đến khả năng để biết sống ở đời.
Cả BA KHÔNG ấy được biểu hiện sinh động trong đời sống Chăm, qua ba tác phẩm văn chương cổ điển Chăm: Kabbon Muk Thruh Palei: Thơ Bà Tổ Quê hương, Ariya Patauw Adat Kamei: Gia huấn ca dành cho Phụ nữ và Ariya Patauw Adat Kamei: Gia huấn ca dành cho Đàn ông. Chúng được sáng tạo từ ba thế kỷ trước bằng chữ truyền thống Akhar thrah, và được truyền tụng đến hôm nay.
Cái BA KHÔNG cổ sơ ấy đặt ra những câu hỏi thiết yếu nào cho cuộc sống hiện đại? Hay nói cụ thể hơn: nó ban tặng cho thế hệ hôm nay bài học nào về lối sống ở đời, về nhân cách con người? Câu trả lời là: Con người cần trang bị tinh thần tự lập, không ỷ lại vào cá nhân, gia đình, đảng phái chính trị hay tông phái tôn giáo; muốn thế con người cần tôi luyện tri thức, biết để phân biệt đúng sai, tốt xấu; qua đó con người hành xử hướng thiện đúng với chữ NHÂN của sinh thể mang tên con người.
INRASARA