.
Phương hay Thuốc quý

Quả Phật thủ

.

Mấy năm gần đây, trên mâm ngũ quả ngày Tết của nhiều gia đình ở Đà Nẵng, bên cạnh các loại quả truyền thống như chuối hay mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài (dân gian diễn dịch là: cầu-vừa-đủ-xài), còn có thêm một loại quả hình dáng rất đặc biệt, có hương thơm và tươi lâu đến mấy tháng sau, đó là quả Phật thủ.

Quả Phật thủ. (Ảnh: Internet)
Quả Phật thủ. (Ảnh: Internet)

Phật thủ có tên khoa học Citrus medica L. var. sarcodactylis (Noot.) Swingle, thuộc họ Cam - Rutaceae. Ở Trung Quốc được gọi là Phật thủ cam, Phật thủ hương duyên, Phước thọ cam, Ngũ chỉ cam (cam năm ngón)…

Phật thủ có nguồn gốc cận Himalaya, thuộc Đông – Bắc Ấn Độ và Myanmar, được trồng rải rác ở một số tỉnh miền Bắc và Nam bộ nước ta.

Cây nhỏ hay cây nhỡ, thường xanh. Thân thẳng có gai ngắn và cứng. Lá so le, hình trứng, gốc tròn hơi thuôn, đầu tù, mép có răng cưa, hai mặt nhẵn, cuống lá ngắn. Hoa mọc riêng lẻ hoặc thành chùm ngắn ít hoa, màu trắng, phía dưới hơi đỏ. Quả có lá noãn rời nhau ở gần gốc, cong và cụp vào trong ở phía trên nom như bàn tay nhiều ngón chụm lại gọi là Phật thủ (bàn tay Phật). Quả có vỏ ngoài sần sùi, khi chín màu vàng; ruột trắng xốp và có mùi thơm

Ngoài công dụng lấy quả chưng Tết và làm mứt để ăn, quả Phật thủ còn là dược liệu quý. Để làm thuốc, người ta thường thu hái quả vào mùa thu đông khi quả chuyển sang màu vàng, cắt dọc thành từng miếng một rồi phơi hay sấy khô.

Theo Đông y, Phật thủ có vị cay, chua, đắng, tính ấm, quy kinh phế, can, tỳ, vị, có tác dụng thư can lý khí, hòa vị chỉ thống, hóa đờm; thường dùng chữa đau dạ dày, đầy tức hông sườn, chán ăn, nôn mửa, nuốt nghẹn, ho dai dẳng có nhiều đàm, lại giải được rượu. Liều dùng mỗi ngày 3-10g cùi quả khô, dạng thuốc sắc hoặc hãm nước sôi, có thể dùng vỏ quả ngâm rượu uống. Khi không có quả có thể dùng hoa, lá, rễ cây Phật thủ để thay thế.

Ở Ấn Độ, dịch quả Phật thủ được dùng chữa bệnh Scorbut (bệnh do thiếu Vitamin C, thường biểu hiện viêm lợi, chảy máu chân răng, …), chống khát, chống nôn, hạ sốt. Nước cất vỏ quả có tác dụng an thần, chữa nhức đầu, hạ sốt.

Theo nghiên cứu dược lý hiện đại, thành phần tinh dầu trong Phật thủ có tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm, bình suyễn khử đàm, kích thích tiêu hóa.

Bài thuốc có dùng Phật thủ:

- Chữa ho đờm, viêm phế quản mạn tính: Cách đơn giản nhất là nhai cả cùi và vỏ quả Phật thủ, nuốt nước. Hoặc dùng Phật thủ và Bán hạ (chế gừng) mỗi vị 6g, sắc uống. Có thể thêm đường cho dễ uống.

- Chữa đau dạ dày: Lấy quả Phật thủ tươi 10-15g hoặc khô 6g, cắt lát mỏng hoặc tán vụn, cho vào ấm, chế nước sôi vào, đậy nắp kín như pha trà, để 10-15 phút sau rót ra uống lúc nóng. Ngày uống một thang, uống rải rác trong ngày thay nước trà.

- Chữa đau dạ dày mạn tính, vị khí bất hòa, bụng đầy chướng, ăn không ngon, chán ăn: Phật thủ khô 10g, Hoa lài 6g, cho vào ấm, chế nước sôi, hãm khoảng 10-15 phút như trên rồi uống lúc nóng. Ngày uống một thang thay nước trà.

- Chữa đau dạ dày do lạnh: Phật thủ khô 15g, gạo tẻ sao vàng 30g, sắc nước chia uống ngày 3 lần.

- Chữa đau bụng do tỳ vị hư hàn: Phật thủ tươi 100g (khô 40g), rượu trắng 1 lít. Phật thủ xắt nhỏ, ngâm với rượu ít nhất 15 ngày. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 5-10ml.

- Chữa nấc, ăn vào nôn ngược trở ra: Lấy vỏ quả Phật thủ tươi cắt nhỏ, trộn đều với đường, ăn ngày 3-4 lần, mỗi lần vài miếng, nhai rồi nuốt dần.

- Chữa trẻ em viêm gan truyền nhiễm: Phật thủ khô dùng liều cho trẻ 1-3 tuổi: 10-15g; 3-5 tuổi: 15-20g; 5-7 tuổi: 20-25g; 7-10 tuổi: 30g . Thêm vị Bại tương thảo với liều mỗi tuổi 1g, từ trên 10 tuổi thì cứ tăng 2 tuổi thêm 1g. Sắc với nước trong 15 phút, pha đường, chia làm 3 lần uống trong ngày, mỗi liệu trình 7-10 ngày. Một bệnh viện ở Trung Quốc đã thử nghiệm phương thuốc này trên 64 bệnh nhi, bình quân 4-5 ngày chứng vàng da biến mất, tinh thần và ăn uống đều chuyển biến tốt.

- Chữa xơ gan cổ trướng phù thũng: Phật thủ khô (chỉ lấy vỏ, bỏ cùi quả) 120g, Nhân trung bạch 90g, tán bột mịn, uống với nước sôi nguội lúc bụng đói.

- Đau bụng kinh: Phật thủ tươi 30g, Đương quy 8g, Gừng tươi 6g, Rượu trắng 30g, thêm chút nước sắc lên, chia 2-3 lần uống trong ngày.

- Chữa huyết trắng ra nhiều: Phật thủ tươi 30g, Ruột non heo 30cm (làm sạch), sắc với nước, chia 2-3 lần uống trong ngày.

- Giải say rượu: Phật thủ tươi 30g, sắc với nước để uống.

Lưu ý: Phật thủ cũng như vỏ quýt phơi khô để lâu năm (gọi là Trần bì) càng tốt, nên chế biến trữ  sẵn trong nhà, phòng khi có bệnh thì dùng, không nên vất bỏ. Phật thủ có tính hành khí mạnh, nên người không có chứng khí trệ, bệnh âm hư có hỏa bốc cần dùng thận trọng, bệnh lỵ lâu ngày khiến khí hư cấm dùng.

PHAN CÔNG TUẤN

;
.
.
.
.
.