Thi sĩ Bùi Giáng, lúc sinh thời cũng như khi đã qua đời có rất nhiều huyền thoại, giai thoại vây quanh cuộc đời. Nhân kỷ niệm 20 năm ngày thi sĩ tạ thế (7-10-1998 - 7-10-2018), bài viết này như một nét minh họa về làng quê nơi ông sinh ra và lớn lên. Cho dù với thi sĩ: Hỏi tên: rằng biển xanh dâu/ Hỏi quê: rằng mộng ban đầu đã xa.
Thi sĩ Bùi Giáng. Ảnh: Internet |
Theo ngọn gió Bùi Giáng thi sĩ dẫn đường“Gió Lệ Trạch thổi qua Cổ Tháp”, tôi về làng quê Duy Châu, Duy Xuyên, Quảng Nam giữa một ngày tiết trời vào thu. Ngược chiều với câu thơ, nghĩa là theo hướng đông - tây, từ Cổ Tháp qua An Lâm rồi mới đến Lệ Trạch. Lên xa hơn nữa là Cù Bàn, Kiểm Lâm. Và rồi cả một vùng tây Duy Xuyên mênh mông núi đồi, qua những An Hòa, Mỹ Sơn, Mỹ Lược, Thu Bồn, Phú Đa…
Thời đánh Tây năm xưa, trước cả Cách mạng Tháng Tám, gia đình Bùi Giáng và một số bà con họ Bùi tộc chuyển lên định cư ở hẳn vùng Trung Phước. Giữa bạt ngàn đồi núi nhấp nhô ấy, nơi nào Bùi thi sĩ từng một thời “Anh lùa bò vào đồi sim trái chín”, tôi cũng chẳng rõ. Nhưng chắc chắn rằng trên những con đường làng quanh co rợp mát này, đã mòn nhẵn bước chân một thời hoa niên của thi sĩ. “Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh Châu. Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng người”.
Cũng xin nói thật lòng, thơ viết như thế kia là cách nhà thơ gọi tên đất tên làng cho… hả nhớ, nó như một phản xạ từ vô thức thôi, chứ chẳng mong đạt tới một ý nghĩa nào ghê gớm.
Vâng, làm sao cắt nghĩa nhớ, làm sao cắt nghĩa yêu, làm sao cắt nghĩa một thứ tình căng đầy trong máu huyết như chực vỡ tràn ra. Cũng ví như khi bàn tay người mẹ chạm vào sợi tao nôi, là lập tức khúc hát ru ầu ơ ca dao từ tim phổi trào ra: “Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng. Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi”!
Nhân nhắc tới vùng núi non thượng nguồn con sông Thu Bồn, những địa danh trong thơ Bùi Giáng như: Bình Yên, Tý, Sé... cho đến Hòn Kẽm Đá Dừng, lại không thể không nói tới cái làng quê Trung Phước kỳ vĩ nằm bên hữu ngạn của dòng sông.
Gọi là kỳ vĩ - là bởi vào thời Bùi Giáng theo gia đình lên định cư nơi đây, bao huyền thoại ông chăn dê trên vùng núi đồi Trung Việt chính là ở chốn này. Có ai ngờ cái làng Trung Phước eo óc dưới chân núi Cà Tang vây quanh bao dặm sơn khê ấy lại là đất... văn vật.
Chỉ mỗi cái làng quê nhỏ bé nằm vào vị thế gieo neo cách trở sông nước, truông đèo thế kia lại là nơi sản sinh ra bao nhà thơ, nhà văn, nhà khoa học nức tiếng trên văn đàn cả nước, như các nhà thơ Tạ Ký, Tường Linh, Hoàng Hưng, giáo sư Hoàng Lý, giáo sư Hoàng Châu Ký, bác sĩ Bùi Kiến Tín... Và, tất nhiên là thi sĩ dị thường Bùi Giáng, cho dù gốc gác quê ông từ Vĩnh Trinh lên đây - Hỏi quê: rằng mộng ban đầu đã xa.
Nhưng tôi muốn trở lại cái làng Thanh Châu xã Duy Châu nơi Bùi thi sĩ sinh ra và lớn lên. Cái miền “Cố quận” như ông đã tả trong “Ngày tháng ngao du” rằng: “Hồi nhỏ, tôi được sanh ra và lớn lên trong miền quê hẻo lánh. Chung quanh có ruộng đồng sông núi trùng điệp, những đám cỏ chạy suốt tuổi thơ. Làng tôi xưa có nhiều cỏ mọc, cỏ mọc từ trong làng ra ngoài ruộng, tới những cồn, gò, đồi núi thật xanh. Từ đó về sau, tôi tìm kiếm mãi một màu xanh không còn nữa vì những trái bom và hòn đạn khổng lồ”.
Đấy là cái cố quận tại thế của Bùi Giáng, nhưng chính cái quê nhà siêu hình của thi sĩ mới là nơi cám dỗ con người ta tìm tới nhiều nhất. Đáp lời nước chảy ngang vai/ Gẫm từ cố quận hai tay dịu dàng/ Lời vui như gió thênh thang/ Điệu buồn như thể dư vang cõi nào.
Một xứ sở như thế ấy thì đã vượt xa tầm của một địa lý, mà là cội nguồn, là quê hương của giống loài: “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội…”. Vậy mà đôi bàn chân trần ai của tôi, hữu hạn của tôi, lại mon men bước xiêu lệch tới bờ cõi này để tưởng ra người xưa đâu đây trong nắng sớm mưa chiều bất tuyệt những âm vang.
Đi giữa một ngày bổi hổi những âm vang trong một làng quê nghe rõ tiếng lở bồi“biển xanh dâu” thế kia, thì chẳng thể khuôn vào trong cái giới hạn vài cây số đường dài từ Cổ tháp đến Lệ Trạch nữa rồi. Mà là cái làng quê của sông cạn đá mòn, cái làng quê vô tận giữa bát ngát ý nghĩa thời gian.
Trong cái di sản đồ sộ thơ văn Bùi Giáng để lại có hơn 60 đầu sách (thơ, dịch, triết luận, phê bình, tiểu luận), tôi nhớ mãi một câu chuyện ông đã viết. Có thể đấy là chuyện Bùi thi sĩ tưởng tượng ra, hoặc cũng có thể là hoàn toàn hiện thực, nghe cứ thấy sông suối tâm hồn ông trong ngần một niềm thơ dại. Nhân vật đối thoại cùng thi sĩ trong ngày ông về thăm quê là một cô thôn nữ.
Kẻ hỏi người đáp, vừa như tưng tửng đùa chơi vừa như tiếng vang ngân ấu thơ, có khả năng làm động vọng thấu tận sâu thẳm nguồn cội như thi sĩ muốn cảnh báo về sự vong thân đâu đó bên trong mỗi con người. Trả lời cô thôn nữ hỏi ông về thăm quê bằng phương tiện gì và đi trong bao lâu, ông trả lời rằng: Từ Sài Gòn đi bộ về quê ròng rã suốt hai tháng trời.
Ăn uống thì quán xá dọc đường, còn ngủ thì tựa gốc cây bên đường, thiu thiu nhắm hai con mắt lại mà ngủ. Nhưng, đây mới là trọng tâm, mới là hàm lượng ý tưởng của câu chuyện. Thôn nữ hỏi Bùi Giáng: “- Sao anh không đi xe đò cho mau chóng tới nơi?”.
Hãy nghe thi sĩ hồn nhiên trả lời: “Anh muốn từ từ thong thả. Vừa đi vừa ngắm phong cảnh dọc đường. Và cũng cố ý kéo dài ra để dành”. Và cái mà Bùi Giáng để dành đó là “Cái quý trọng. Tỷ như đứa bé để dành cái bánh, cây kẹo của người ta cho mình”, còn ông thì: “Để dành cuộc gặp gỡ sau nhiều năm xa cách. Đừng gặp vội…”. Cách trả lời như là chính thi sĩ, không, một đứa bé nguyên vẹn chưa bị thời gian tước đoạt lấy mất đi bất cứ một thứ gì.
Nó nguyên vẹn như suối trong, như trăng sáng, như mùa xuân trong cái thiên đường ấu thơ huy hoàng của mình. Bùi Giáng là nguyên ủy của sông suối, bát ngát những thanh âm hồn nhiên của một trẻ thơ trong cái thiên đường quê nhà vĩnh cửu không ai có quyền tước đoạt.
Gọi đó là một thứ đạo hạnh (éthique) thì đấy là nơi mà nghệ thuật và đời sống đã hòa hợp như một tôn giáo, nơi thời gian đến hoặc đi đều bất lực trước “Tâm hồn như lộc trang đời như điên”.
Giếng nước xưa của cụ Cửu Tý ( cha của thi sĩ Bùi Giáng) ở xã Duy Châu, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam. Ảnh: V.T.L |
Một ngày rong ruổi trên quê hương Bùi Giáng là đi giữa đôi bờ hư-thực, khi thì qua một làng quê trong trẻo thanh bình rất cụ thể: “Vĩnh Trinh Lệ Trạch Thanh Châu”. Nhưng, quả thực đi trên những lối gập ghềnh đường quê này, có lúc mình quên khuấy chính mình, quên thực tại này để nhớ tới một hiện hữu khác.
Mà kể cũng lạ, không dưng mà gặp ai tôi cũng thấy mang máng chút dáng dấp hình hài Bùi thi sĩ. Chẳng phải họ làm dáng hoặc đánh bóng cái tâm hồn mình cho nó lộ ra cốt cách gì đâu. Tất cả đều hồn nhiên trong trẻo, thơ dại đến thực lòng.
Họ là nông dân, là anh thợ cắt tóc, là em thợ may vá hay chú thợ sửa xe đạp. Cũng có khi là một ông giáo làng… Tất cả lam lũ, lam lũ và lam lũ! Chiều chiều, sau những giờ chạy vạy nhọc nhằn lo cơm áo (dù cho thời vụ gấp gáp có rượt sau lưng), tất cả đều kéo ra ngồi quành tròn ở cái quán cóc bên ngã tư đường làng để… véo von thơ Bùi Giáng bay bổng chín tầng mây:
Mưa có tạnh nhưng chân trời còn mãi
Những giọt sương là lệ ở trong mây
Phải chăng thơ Bùi thi sĩ như thấm đẫm vào đất đai này lên tiếng thúc giục. Và rồi cũng chẳng phải say đâu, bỗng dưng gương mặt nào cũng trẻ thơ ra, cũng đa tình sướt mướt: “Em ở lại với đời ta em nhé/Em đừng đi. Cho ta nắm tay em/Ta muốn nói bằng thơ bay nhè nhẹ/Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm”.
Làm sao tôi có thể đứng bên ngoài những cuộc ấy.
Và vì thế, rong chơi hay là hành hương trên làng quê của Bùi thi sĩ, thoạt đầu cũng chỉ khơi vơi bắt chước thi sĩ mà “Sơ khai du mục tầm phương thảo”, nhưng hương cỏ người xưa đâu để mà du mục đi tìm.
Thế nên, rồi tôi cũng sà vào chung chiếu giữa cái quành tròn thơ dại ấy cho thỏa niềm mong ước “Mai sau hẹn với ban đầu. Chờ nhau ngõ khác ngó màu Nguyên xuân”. Và thưa thi sĩ, làng trên xóm dưới của Người ngày như là ngày đang xuân, đang tưng bừng trước thanh tân cái đẹp.
Ngàn mai cá sóng phiêu bồng
Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi
Những tiếng nói thơ dại quanh đây, những con mắt trong veo chứa chan tình yêu quanh đây, ngẫu nhiên làm sao cũng kịp kỳ hẹn trở về: “Với xuân xanh vẫn cùng nhau hẹn ngày”!
Bút ký Nguyễn Nhã Tiên