"Nhà văn đầm phá" Hồng Nhu phiêu du miền mây trắng

.
Nhà văn Hồng Nhu
Nhà văn Hồng Nhu

Trong làng văn xứ Huế, nhà văn Hồng Nhu nổi bật với mái tóc bạc và điếu thuốc lá bất ly thân. Với những sáng tác về đời sống của bà con vùng sông nước Cầu Hai, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên Huế), bạn bè đặt cho ông biệt danh “nhà văn đầm phá”. Do tuổi cao sức yếu, ông đã rời cõi tạm lúc 13 giờ ngày 3-9-2022 tại nhà riêng ở phường Trường An, thành phố Huế, hưởng thọ 90 tuổi.

Nhà văn Hồng Nhu từng trăn trở, băn khoăn lựa chọn trở về quê hay ở lại thành phố Vinh (tỉnh Nghệ An)- nơi ông đã gắn bó hơn 20 năm với bao kỷ niệm vui buồn. Lúc đó là năm 1987, nhà văn hơn 50 tuổi, tóc đã bạc trắng vì bao đêm thao thức. Với nhiều người, ở tuổi ngoài 50 thì mọi sự gần như đã an bài, rất ngại xáo trộn, biến động. Nhưng rồi tình cảm với quê hương cứ thôi thúc ông. Cuối cùng ông quyết định trở về, để rồi từ đó có những truyện ngắn đặc sắc viết về đời sống của bà con vùng sông nước Cầu Hai, huyện Phú Lộc.

Đọc những truyện ngắn Vịt trời lông tía bay về, Lễ hội ăn mày, Cổ tích làng, Giếng loạn..., cứ tưởng Hồng Nhu xuất thân trong gia đình làm nghề sông nước, hóa ra không phải. Bố ông nguyên là thầy khóa. Thuở nhỏ, Hồng Nhu thường nghe ông cụ kể về đời sống của bà con đầm phá với bao câu chuyện huyền bí, bao lễ hội, tập tục lạ lùng. Chẳng hạn như lễ hội ăn mày được tổ chức ở chợ Cồn, vào giờ Thìn, mồng 2 Tết. Mâm cỗ được bà con bưng ra từ sáng sớm. Những người ăn mày trong vùng tụ tập đông đủ, ngồi vào mâm cỗ, “họ ăn một cách đàng hoàng, đĩnh đạc như ăn cỗ ở nhà mình”.

Còn lễ nhập vạn đò diễn ra đơn sơ mà tráng lệ. Trong chậu nước đặt đầu mũi thuyền có một con tôm và một con cá ngạnh (cá tượng trưng cho bản mệnh của người con trai, tôm tượng trưng cho bản mệnh của người con gái). Lễ hợp cẩn vừa hoang dã, vừa trang nghiêm. Chủ lễ là bố chú rể thắp hai cây hương to và một nắm hương nhỏ (tượng trưng cho hai vợ chồng và đàn con) cắm vào bát nhang đặt đầu mũi thuyền. Thắp hương khấn vái xong, ông dõng dạc hô: Xuống đầm! Đôi trai gái mỗi người ngậm một con cá, trút bỏ quần áo, cầm tay nhau nhảy xuống nước. Giao phối xong, hai người há miệng thả cá dâng Thần Đầm. Có lẽ trên thế gian này không có nơi nào tổ chức lễ hợp cẩn lạ lùng như vậy.

Nhà văn Hồng Nhu từng cho biết, dân đầm phá thời trước không phải đi hỏi vợ mà là đi “cướp vợ”. Họ lân la nơi chợ búa, gặp cô nào thất cơ lỡ vận thì lập mẹo bắt. Khi bắt, họ nhét củ khoai hoặc cục cơm vào mồm cô gái chứ tuyệt đối không nhét giẻ, sợ Hà Bá trừng phạt.

Trong các trang viết, nhà văn Hồng Nhu đan cài đời sống tâm linh và đời sống thường nhật, đan cài quá khứ và hiện tại. Nhân vật trong các truyện ngắn của ông đều là những con người bình thường. Nhà văn khéo léo dẫn dắt họ vào những tình huống gay cấn để làm nổi bật bản lĩnh hoặc những giằng xé nội tâm của họ. Truyện ngắn Vịt trời lông tía bay về là tình huống anh con trai của ông Vui phải giả vờ nghe lời bố nhưng tìm đủ cách lên đường nhập ngũ. Ông Vui chỉ vì thương con mà “bày điều trái đạo” (bắt con trốn nghĩa vụ quân sự). Còn Mừng - con trai ông - “không muốn phiền lòng cha mà phải thề bồi” nhưng cương quyết không nghe lời cha. Mừng đã làm theo ý mình, mặc dù biết làm như thế là mang tội bất hiếu với cha.

Nhân vật Đào trong truyện ngắn Lễ hội ăn mày giằng xé giữa tình cảm quê hương và tình cảm gia đình. Xa quê bao nhiêu năm, chị đau đáu nhớ quê, quyết tâm trở về quê bằng mọi giá. Chị dìu đứa con 9 tháng tuổi bơi đến sáu bảy cây số từ giữa phá vào bờ. Chị muốn gặp lại cha mẹ, xóm giềng. Nhưng đúng thời điểm chuẩn bị lên đường ra Bắc, chị nhìn thấy trong lễ hội ăn mày có người đàn ông dắt một đứa trẻ đi vào chợ Cồn. Giây phút ấy, chị có cảm giác như hàng nghìn mũi kim đâm vào tim chị. Đào đau đớn quằn quại. Tác giả chia sẻ nỗi dằn vặt lương tâm với chị: “Đã mười năm nay chị chèo chống trên mặt đầm, lớn lên cùng sóng nước, thở nhịp thở của thủy triều lên xuống, con tôm con cá đã là bạn bầu của chị, trời nước bao la đã là tầm nhìn của chị, màu nước sắc mây đã là dung nhan của chị, sao chị lại dễ dàng đánh mất?”. Nếu không đồng cảm với nhân vật Đào, nhà văn khó lòng diễn tả được sự giằng xé nội tâm xúc động đến như thế. Đây là một trong những đoạn văn trữ tình đậm chất thơ. Từ những con người dám sống và hành động theo ý mình như vậy, nhà văn rút ra quy luật muôn đời: Những điều tốt đẹp, trọn vẹn không phải từ trên trời rơi xuống mà con người phải tự tìm lấy.

Ở những truyện ngắn Vịt trời lông tía bay về, Lễ hội ăn mày..., Hồng Nhu có cách diễn đạt rất phù hợp với con người thiên nhiên vùng đầm phá. Biện pháp nghệ thuật mà ông sử dụng nhiều nhất là biện pháp so sánh. Đó là lối nói mà cư dân ở những vùng đầm phá hay dùng. Phải rất am tường “thủy thổ vùng sông nước”, nhà văn mới có thể ví von: “Bầy con ăn xong, chúng sà tới rần rật như một đàn le le, lặng lẽ ngồi bu quanh mẹ”; “Người Vui ướt lướt thướt như bó rong mới cào dưới đầm lên”; “Ông Vui đứng đầu mũi, bóng dựng như cái cột buồm, mắt ông tinh như mắt rắn nước”... Những hình ảnh đưa ra so sánh đều là những hình ảnh quen thuộc của vùng đầm phá.     

Phải có tay nghề cao và vốn sống thật phong phú mới viết được những thiên truyện ngắn đặc sắc như thế. Bởi vậy, bạn bè văn nghệ ở Huế đặt cho ông biệt danh “nhà văn đầm phá”.

Nhà văn Hồng Nhu, tên thật là Trần Hồng Nhu. Ông sinh năm 1932, quê ở xã Vinh Mỹ, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông nguyên là Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, nguyên Tổng Biên tập tạp chí Sông Hương. Ông đã xuất bản 14 tập truyện ký, 1 tập tiểu thuyết, 2 tập thơ và được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2012.

MAI VĂN HOAN

;
;
.
.
.
.
.