(Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố khóa XX tại Đại hội đại biểu lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015 - 2020 Đảng bộ thành phố)
Đại hội đại biểu lần thứ XXI Đảng bộ thành phố Đà Nẵng tiến hành vào thời điểm đất nước đã trải qua 30 năm đổi mới, hội nhập và đạt nhiều thành tựu quan trọng. Đại hội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XX, nhiệm kỳ 2010 - 2015; quyết định phương hướng, nhiệm vụ xây dựng thành phố giai đoạn 2015 - 2020, tạo động lực mới để thành phố Đà Nẵng phát triển nhanh, bền vững, phát huy vai trò đối với khu vực miền Trung - Tây nguyên và đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước; thảo luận, đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội XII của Đảng; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố và bầu Đoàn đại biểu Đảng bộ thành phố dự Đại hội XII của Đảng. Với nhiệm vụ nêu trên, Đại hội đại biểu lần thứ XXI Đảng bộ thành phố là sự kiện chính trị quan trọng, đánh dấu chặng đường phát triển mới của Đà Nẵng.
PHẦN THỨ NHẤT
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XX NHIỆM KỲ 2010 - 2015
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Nghị quyết Đại hội XX Đảng bộ thành phố, bên cạnh những thuận lợi, thành phố cũng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế - xã hội và tư tưởng của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Tuy nhiên, với tinh thần chủ động, sáng tạo, đoàn kết trong Đảng bộ và sự đồng thuận sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân; sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành; sự lãnh đạo, hỗ trợ kịp thời của Trung ương, sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XX Đảng bộ thành phố gắn với thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW và Kết luận 75-KL/TW của Bộ Chính trị, thành phố đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, tương đối toàn diện trên các lĩnh vực, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng.
A- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
I- Về kinh tế - xã hội
Trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn hơn dự báo, thành phố đã lãnh đạo, chỉ đạo triển khai kịp thời các giải pháp nhằm ổn định và phát triển kinh tế, gắn với tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tập trung thực hiện 5 đột phá về phát triển kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội XX, tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cải thiện môi trường đầu tư, thực hiện giảm, giãn thuế, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển sản xuất kinh doanh(1). Nhờ đó, tình hình kinh tế - xã hội đạt kết quả tích cực. Cụ thể:
1- Kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, các nguồn lực xã hội được phát huy, các ngành, lĩnh vực đều có bước phát triển
Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GRDP, giá so sánh 2010) ước tăng 9,7%/năm, cao hơn mức bình quân cả nước, đến năm 2015 ước đạt 45.885 tỷ đồng, bằng 1,6 lần năm 2010; GRDP bình quân đầu người được nâng lên rõ rệt, năm sau cao hơn năm trước, đến năm 2015 ước đạt 62,65 triệu đồng, tương đương 2.908 USD, gần bằng 2 lần năm 2010 (2); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, đến năm 2015, tỷ trọng dịch vụ trong GRDP ước đạt 62,6%, công nghiệp - xây dựng 35,3% và nông nghiệp 2,1%.
Cơ cấu các thành phần kinh tế chuyển dịch tích cực, ước năm 2015, tỷ trọng kinh tế dân doanh ước tăng từ 60,1% lên 63,7%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng từ 11% lên 12,8%, trong khi kinh tế nhà nước giảm từ 28,3% năm 2010 xuống còn 23,5%. Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, phần lớn các doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động có hiệu quả, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế thành phố.
Đột phá về phát triển dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch và thương mại thực hiện đạt kết quả rõ nét, giá trị sản xuất dịch vụ ước tăng 12,1%/năm, đến năm 2015 gấp 1,8 lần năm 2010, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố. Hạ tầng thương mại phát triển nhanh theo quy hoạch, hình thành hệ thống chợ, các trung tâm thương mại, siêu thị, khu phố chuyên doanh (3). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước tăng 16,8%/năm. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tăng 15,4%/năm, thị trường xuất khẩu được mở rộng đến nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.
Du lịch phát triển nhanh, dần khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn.
Hạ tầng du lịch được đầu tư phát triển mạnh; sản phẩm du lịch tăng về chất lượng, số lượng và đa dạng về loại hình (4). Cuộc thi trình diễn pháo hoa quốc tế qua 7 năm tổ chức đã thu hút đông đảo du khách và trở thành sự kiện văn hóa, du lịch đặc sắc, góp phần quảng bá hình ảnh thành phố đến với bạn bè trong nước và quốc tế. Trên địa bàn hiện có 75 dự án du lịch đã và đang triển khai, vốn đầu tư 8,7 tỷ USD, nhiều dự án mang thương hiệu quốc tế (5) đã đưa vào hoạt động, tạo diện mạo mới, sức hấp dẫn, thu hút và lưu giữ du khách. Giai đoạn 2011 - 2015, tổng lượt khách đến thành phố ước đạt 16,4 triệu lượt người, tăng 20,1%/năm, trong đó, khách quốc tế 4 triệu lượt, tăng 25,5%/năm; thu nhập từ du lịch ước đạt gần 40.000 tỷ đồng, tăng 30,6%/năm.
Dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông phát triển với quy mô ngày càng lớn, riêng doanh thu công nghệ thông tin ước tăng 24,1%/năm, trong đó, kim ngạch xuất khẩu phần mềm ước tăng 26%/năm, thị trường chính là Hoa Kỳ, Nhật Bản và khu vực châu Âu… Chất lượng dịch vụ vận tải ngày càng cao, doanh thu ước tăng 22,6%/năm. Sân bay quốc tế Đà Nẵng được đầu tư nâng cấp, đón 5 triệu lượt khách/năm (2014). Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm phát triển đa dạng; vốn huy động ước tăng 14,2%/năm; dư nợ cho vay ước tăng 10,1%/năm. Các dịch vụ giáo dục và đào tạo, y tế... phát triển khá, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô hoạt động và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ.
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng ổn định và từng bước phát triển theo chiều sâu, giá trị sản xuất ước tăng 10%/năm. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp chuyển đổi tích cực (6), công nghiệp chế biến tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, công nghiệp hỗ trợ bước đầu phát triển, chiếm hơn 25% giá trị sản xuất toàn ngành. Một số dự án sản xuất công nghiệp có quy mô lớn, như: cao su, lắp ráp ô-tô, điện, điện tử, sữa, bia,… được đầu tư mới, mở rộng sản xuất (7), góp phần hình thành các sản phẩm mới, tạo giá trị gia tăng cao, cải thiện tăng trưởng công nghiệp trong cả nhiệm kỳ.
Đột phá về thu hút đầu tư công nghiệp công nghệ cao thực hiện đạt kết quả bước đầu, công nghiệp công nghệ thông tin phát triển đa dạng và đồng bộ, dần trở thành ngành công nghiệp quan trọng (8). Thành phố đã tập trung xây dựng hạ tầng, ban hành chính sách ưu đãi đầu tư vào Khu Công nghệ cao, đến quý I-2015, đã thu hút được 3 dự án đầu tư (9). Bên cạnh đó, tiếp tục đầu tư hoàn thiện hạ tầng, rà soát, nâng cao hiệu quả sử dụng đất tại 6 khu công nghiệp đang hoạt động.
Nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tái cấu trúc lại ngành, phát triển theo chiều sâu và nâng cao giá trị gia tăng; bước đầu hình thành được một số mô hình chuyên canh giống lúa, trồng hoa, rau an toàn, nuôi trồng thủy sản nước ngọt, sản xuất nấm ăn, với năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế tăng lên; giá trị sản xuất ước tăng 4,5%/năm.
Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, đạt kết quả khả quan, huy động hơn 1.700 tỷ đồng để đầu tư, tạo thay đổi nhanh diện mạo nông thôn, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Dự kiến đến cuối năm 2015 huyện Hòa Vang đạt chuẩn nông thôn mới và thành phố hoàn thành chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Công tác quản lý, bảo vệ rừng, kiểm tra, phòng, chống chặt phá, cháy rừng được chú trọng; tỷ lệ che phủ rừng đến cuối năm 2015 ước đạt 42%.
Kinh tế biển được chú trọng đầu tư phát triển, gắn với bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo. Hạ tầng kỹ thuật phục vụ kinh tế biển, như: cảng biển, cảng cá, đường giao thông, các khu du lịch ven biển... được đầu tư xây dựng, khai thác hiệu quả hơn, trong đó, hạ tầng cảng biển được đầu tư phát triển, hình thành cảng container có quy mô lớn, hiện đại của khu vực. Sản lượng hàng hóa qua Cảng Đà Nẵng ước tăng 14,5%/năm, đến cuối năm 2015 ước đạt 6,5 triệu tấn.
Thành phố thực hiện tốt các chính sách của Trung ương, đồng thời ban hành chính sách hỗ trợ ngư dân đóng mới tàu khai thác hải sản, tàu dịch vụ hậu cần nghề cá, góp phần nâng cao năng lực khai thác hải sản xa bờ (10). Số lượng tàu công suất 90 CV trở lên tăng nhanh, bình quân năm 2010 là 41,7 CV/tàu, năm 2015 là 125,86 CV/tàu. Sản lượng khai thác hải sản đạt 34.640 tấn/năm.
Hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại, liên kết hợp tác trong nước và quốc tế ngày càng mở rộng và có hiệu quả. Đã phối hợp tổ chức nhiều hội thảo, hội nghị để tăng cường hợp tác, liên kết vùng về giao thông, kinh tế biển, du lịch, đào tạo, y tế...; thành lập Tổ điều phối và Quỹ đầu tư nghiên cứu phát triển các tỉnh duyên hải miền Trung. Các hoạt động hữu nghị, giao lưu, đối ngoại nhân dân trên các lĩnh vực được đẩy mạnh, góp phần thu hút các nguồn lực đầu tư, nâng cao vị thế của thành phố trong khu vực và quốc tế. Việc huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội được thực hiện khá tốt (11). Tổng vốn đầu tư phát triển ước đạt 159.170 tỷ đồng, tăng 9,4%/năm.
Công tác quản lý, điều hành ngân sách được thực hiện chặt chẽ, linh hoạt, hiệu quả. Cơ cấu nguồn thu chuyển biến tích cực, nguồn thu phát sinh từ kinh tế có tỷ trọng đóng góp ngày càng tăng. Giai đoạn 2011 - 2015, tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 58.233 tỷ đồng, tăng 0,7%/năm, trong đó thu nội địa (không kể thu tiền sử dụng đất) ước đạt 32.855 tỷ đồng, tăng 11,2%/năm; tổng thu cân đối ngân sách địa phương ước đạt 80.240 tỷ đồng (12). Thành phố đã cơ cấu lại chi, đảm bảo chi đúng mục đích, tiết kiệm, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 69.558 tỷ đồng, giảm 4,8%/năm.
2- Quản lý, thực hiện tốt công tác quy hoạch, huy động nhiều nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị theo hướng văn minh, hiện đại
Công tác quy hoạch, quản lý thực hiện quy hoạch, nhất là quy hoạch xây dựng, quản lý kiến trúc, cảnh quan đô thị và môi trường được chú trọng thường xuyên. Thành phố đã chủ động nghiên cứu điều chỉnh Quy hoạch chung đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; đã ban hành quy định quản lý đồ án điều chỉnh quy hoạch chung, làm cơ sở pháp lý cho công tác quy hoạch các ngành, các lĩnh vực. Thường xuyên rà soát, cập nhật và khớp nối các đồ án quy hoạch; rà soát và hủy các dự án quy hoạch không khả thi, xử lý một bước đối với các dự án treo, chậm triển khai (13) gắn với việc giải quyết các quyền lợi cho nhân dân. Tiến hành rà soát quỹ đất, xử lý cơ bản nợ đất tái định cư thực tế từ năm 2014 trở về trước, đảm bảo công bằng, công khai, minh bạch, tạo sự phấn khởi, đồng thuận, giúp dân vùng dự án ổn định cuộc sống.
Thành phố tiếp tục thực hiện chủ trương tạo vốn từ quỹ đất, tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương, quỹ đầu tư phát triển, phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, các hình thức đầu tư BOT, BT... để đầu tư xây dựng, hoàn thành nhiều công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp, hiện đại, tạo điểm nhấn về kiến trúc cảnh quan đô thị, như: cầu Rồng, cầu Trần Thị Lý, cầu Nguyễn Tri Phương, Nút giao thông khác mức ngã ba Huế, đường vành đai phía Nam, Trung tâm hành chính thành phố, Nhà ga sân bay quốc tế...
Tốc độ đô thị hóa tiếp tục diễn ra nhanh, ranh giới đô thị mở rộng thêm gần 2.000 ha (14) so với năm 2010, về các hướng Tây, Tây - Bắc, Nam, Đông - Nam phù hợp với quy hoạch được phê duyệt. Hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông, cấp điện, nước, điện chiếu sáng, cây xanh, xử lý rác thải... được đầu tư khá đồng bộ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, cải tạo môi trường, cải thiện chất lượng sống của nhân dân, tạo diện mạo mới cho thành phố theo hướng văn minh, hiện đại. Tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 32.069 tỷ đồng, bằng 46,1% tổng chi ngân sách địa phương.
Công tác quản lý đô thị, xây dựng, tài nguyên, môi trường được thực hiện khá tốt, tạo chuyển biến tích cực về trật tự, mỹ quan đô thị. Công tác quản lý Nhà nước về đất đai được tăng cường, từng bước đi vào nền nếp; rà soát, bố trí sử dụng có hiệu quả quỹ đất để phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường quản lý, kiểm tra các hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản, ngăn chặn và xử lý kịp thời tình trạng khai thác tài nguyên, khoáng sản trái phép.
Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - thành phố môi trường” được đẩy mạnh và đạt kết quả tích cực (15); tập trung xử lý các điểm nóng về môi trường, các điểm ngập nặng, giữ gìn vệ sinh môi trường tại các bãi biển. Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu được tích cực triển khai, tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của các cấp, các ngành và xã hội. Với kết quả trên, thành phố được nhận nhiều giải thưởng lớn của quốc tế về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu (16).
3- Quan tâm đầu tư phát triển các lĩnh vực xã hội; tăng cường xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, thực thi các chính sách xã hội giàu tính nhân văn
Giáo dục và đào tạo được đầu tư phát triển cả về số lượng và chất lượng. Mạng lưới trường, lớp được xây dựng và phát triển theo quy hoạch, kịp thời điều chỉnh, bổ sung theo hướng chuẩn hóa và xã hội hóa (17). Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên được chuẩn hóa; công tác quản lý giáo dục, cơ sở vật chất trường học được tăng cường, tạo sự chuyển biến cả về giáo dục chất lượng cao và giáo dục đại trà; khoảng cách chất lượng giáo dục giữa nội thành và ngoại thành dần thu hẹp; cơ bản khắc phục tình trạng tuyển sinh trái tuyến tại các trường học ở trung tâm.
Nhiều học sinh đoạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia, quốc tế. Truyền thống hiếu học và khuyến học tiếp tục được phát huy. Hoạt động đào tạo nghề được chú trọng (18), từng bước đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Quy mô đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp tiếp tục phát triển (19), góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho thành phố và các địa phương trong khu vực. Đặc biệt, việc thực hiện đột phá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đạt kết quả tích cực cả về thu hút, đào tạo và bồi dưỡng, nhất là trong khu vực công (20).
Hoạt động khoa học và công nghệ được chú trọng và đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển của các ngành, địa phương (21). Thành phố là địa phương đi đầu trong việc thực hiện khoán thí điểm đến sản phẩm khoa học công nghệ cuối cùng; hình thành Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa (22). Công tác quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, đo lường chất lượng được thực hiện khá tốt, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, chống gian lận thương mại, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, nâng cao năng lực cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Trên lĩnh vực y tế, thành phố tăng cường đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại, phát triển y tế chuyên sâu, bệnh viện chuyên khoa (Bệnh viện Ung thư, Bệnh viện Phụ sản - Nhi, khoa Ung bướu và khoa Y học nhiệt đới tại Bệnh viện Đà Nẵng, Bệnh viện Y học cổ truyền cơ sở 2...); hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đẩy mạnh xã hội hóa và phát triển hệ thống y tế ngoài công lập..., góp phần thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân (23); 92,5% số dân tham gia bảo hiểm y tế. Các hoạt động y tế dự phòng, phòng, chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường. Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em được quan tâm (24).
Hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển đa dạng và có nhiều tiến bộ. Thành phố chú trọng công tác trùng tu, tôn tạo, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể; tổ chức sưu tầm, triển lãm tư liệu lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Tập trung đầu tư xây dựng nhiều công trình, thiết chế văn hóa quan trọng (25). Tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, thể thao lớn (26), góp phần từng bước hình thành thương hiệu thành phố văn hóa, du lịch, thành phố sự kiện. Đội ngũ văn nghệ sĩ có nhiều cố gắng trong sáng tạo văn học và nghệ thuật, bám sát thực tiễn sinh động của thành phố, khắc họa những giá trị truyền thống của quê hương.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu, gắn kết có hiệu quả với Đề án “Xây dựng nếp sống văn hóa - văn minh đô thị”, triển khai “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015”, góp phần nâng cao dân trí, tạo nền tảng tinh thần, động lực mới cho phát triển.
Hoạt động báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình tiếp tục phát triển, phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân. Các cơ quan báo, đài thành phố có bước phát triển mới, ngày càng khẳng định vai trò kênh thông tin thiết yếu trong việc tuyên truyền, định hướng dư luận, tạo sự đồng thuận, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển thành phố.
Phong trào thể dục, thể thao được quan tâm đầu tư phát triển, nhất là thể thao thành tích cao, đoạt nhiều giải thưởng ở các giải quốc gia, khu vực và thế giới. Một số công trình thể thao trọng điểm được tập trung đầu tư, đảm bảo đăng cai, tổ chức các giải đấu quốc gia và khu vực (27).
Công tác đảm bảo an sinh xã hội gắn với chương trình thành phố “5 không”, “3 có” được thực hiện tốt. Trong 3 năm 2011 - 2013, với chủ đề “Năm an sinh xã hội”, thành phố tập trung chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội, hộ nghèo và đồng bào dân tộc. Mục tiêu “Không có hộ đặc biệt nghèo” cơ bản hoàn thành, Đề án giảm nghèo giai đoạn 2009 - 2015 về đích trước 3 năm (năm 2012), giai đoạn 2013 - 2017 về đích trước 2 năm (năm 2015), đến cuối năm 2015 không còn hộ nghèo theo chuẩn mới của thành phố (28).
Đến nay “Không có học sinh bỏ học” do hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Mục tiêu “Không có người lang thang xin ăn” được tăng cường với nhiều biện pháp xử lý tình trạng lang thang xin ăn biến tướng, bán hàng rong. Thành phố kiên trì thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện ma túy trong cộng đồng”, chú trọng công tác quản lý cai nghiện và giải quyết các vấn đề sau cai, hạn chế phát sinh các điểm nóng về ma túy; có nhiều nỗ lực trong kiểm soát mục tiêu “Không có giết người để cướp của”.
Đề án “Có nhà ở” được triển khai đồng bộ bằng cả nguồn vốn ngân sách và xã hội hóa, hướng tới người có thu nhập thấp và hộ nghèo (29). Đặc biệt, năm 2014, 2015 đã hoàn thành Đề án xây dựng, sửa chữa gần 2.000 nhà ở cho các gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân Làng Vân. Công tác quản lý, sử dụng nhà chung cư đi vào nền nếp, các sai phạm được xử lý nghiêm, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Đề án “Có việc làm” được quan tâm thực hiện, tổ chức tốt các phiên giao dịch việc làm, kết nối cung cầu lao động, hằng năm giải quyết việc làm cho 3,2 vạn lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 55%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị đến cuối năm 2015 ước giảm còn 4,15% (cuối năm 2010 là 4,9%).
Đời sống tín ngưỡng của nhân dân được tôn trọng, hoạt động tôn giáo thuận lợi, phù hợp với chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Công tác dân tộc được đẩy mạnh, chăm lo phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các xã miền núi nói chung, đồng bào dân tộc nói riêng. Đời sống của đồng bào dân tộc được cải thiện rõ rệt; không còn hộ đồng bào dân tộc đặc biệt nghèo.
Có thể khẳng định, việc thực hiện các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là thực hiện 5 đột phá theo Nghị quyết Đại hội XX đã góp phần phát huy tiềm năng, lợi thế, tạo sức bật mới cho thành phố. Các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch và thương mại tiếp tục phát triển theo hướng hiện đại, đa dạng, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động, đáp ứng nhu cầu sản xuất, đời sống và hội nhập quốc tế. Xây dựng cơ sở hạ tầng Khu Công nghệ cao bước đầu đáp ứng yêu cầu thu hút đầu tư. Công nghệ thông tin phát triển khá, dần trở thành ngành công nghiệp quan trọng.
Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đạt kết quả quan trọng, nhiều công trình trọng điểm đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới cho thành phố. Đã xây dựng và triển khai tích cực các chương trình, đề án phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa; các chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015”, “Xây dựng Đà Nẵng - thành phố môi trường” được thực hiện tốt, mang đậm tính nhân văn và dần hình thành nét văn hóa của thành phố. Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đạt kết quả tích cực, góp phần tạo chuyển biến và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân lực cho thành phố.
II- Về quốc phòng, an ninh
Công tác quốc phòng, an ninh được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân không ngừng được củng cố. Công tác giáo dục và phổ biến kiến thức quốc phòng, an ninh được triển khai sâu rộng trong cán bộ, đảng viên; ý thức trách nhiệm bảo vệ chủ quyền Tổ quốc nói chung, Biển Đông và huyện đảo Hoàng Sa nói riêng được nâng lên.
Các tiềm lực trong khu vực phòng thủ, nhất là tiềm lực chính trị - tinh thần, thế trận lòng dân được chú trọng xây dựng. Hoàn thành quy hoạch và xây dựng các công trình quốc phòng, khu vực phòng thủ đảm bảo theo kế hoạch. Thực hiện chặt chẽ chủ trương kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, nhất là trong xây dựng, thực hiện các quy hoạch, dự án đầu tư. Chỉ đạo diễn tập khu vực phòng thủ thành phố, quận, huyện; diễn tập chiến đấu trị an cấp phường, xã; diễn tập vận hành cơ chế đối với doanh nghiệp đạt kết quả tốt.
Chỉ tiêu tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ đạt 100% với chất lượng tốt; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt 1,5% so với dân số; thực hiện chặt chẽ công tác đăng ký, quản lý lực lượng dự bị động viên và công tác hậu phương quân đội. Chăm lo đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, xây dựng lực lượng vững mạnh; nâng cao chất lượng tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống. Lực lượng vũ trang thành phố, các đơn vị của Bộ Quốc phòng, Quân khu đóng quân trên địa bàn phối hợp làm tốt công tác dân vận, xây dựng nông thôn mới, xây dựng thực lực chính trị, giữ vững ổn định từ cơ sở.
An ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội cơ bản đảm bảo, không để bị động bất ngờ; triển khai hiệu quả phương án chủ động đối phó, xử lý đúng đắn, hiệu quả các tình huống kích động, gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững ổn định, bảo đảm môi trường đầu tư, các hoạt động sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của nhân dân, nhất là trong thời điểm Trung Quốc đưa trái phép giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được triển khai sâu rộng, cùng với hoạt động tấn công, trấn áp các loại tội phạm đã góp phần kiềm chế các vụ trọng án (30). Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông có chuyển biến tích cực; không để xảy ra đua xe trái phép, ùn tắc giao thông kéo dài; ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông được nâng lên; tai nạn giao thông giảm trên cả 3 tiêu chí (31). Lực lượng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy sau khi được tổ chức lại, nhanh chóng ổn định, đi vào hoạt động, góp phần ngăn chặn, hạn chế nguy cơ cháy, nổ, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và Nhà nước.
III- Công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
1- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới
Tổ chức thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với nhiều hình thức sáng tạo, nền nếp, trở thành công việc thường xuyên của nhiều tổ chức và cá nhân; việc “làm theo” từng bước đi vào chiều sâu, phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Xuất hiện ngày càng nhiều tấm gương tập thể, cá nhân điển hình tiêu biểu trong các cấp, các ngành tạo sự lan tỏa trong xã hội(32).
Thực hiện chặt chẽ, đồng bộ các nhóm giải pháp theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng. Việc tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình ở các cấp, các ngành được thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, thận trọng và đảm bảo yêu cầu; sau kiểm điểm, các đơn vị đã từng bước khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, góp phần nâng cao nhận thức, cảnh báo và ngăn chặn một bước sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tinh thần tự phê bình, phê bình, xây dựng, tính tiên phong gương mẫu được phát huy; đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng được nâng cao.
Công tác tư tưởng được coi trọng và có chuyển biến tích cực; từng bước đổi mới phương thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, đề cao ý thức tự nghiên cứu, thảo luận để tạo sự thống nhất nhận thức, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện phù hợp với thực tiễn địa phương (33). Đẩy mạnh tuyên truyền, định hướng dư luận xã hội, kịp thời đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, góp phần phòng chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Công tác nghiên cứu lý luận, quản lý báo chí, xuất bản, văn hóa - văn nghệ được tăng cường. Công tác khoa giáo có nhiều chuyển biến tích cực. Việc sưu tầm, biên soạn lịch sử, phát huy truyền thống được đẩy mạnh (34). Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước, của thành phố.
Tổ chức bộ máy Đảng, hệ thống chính trị được đổi mới, kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Tập trung triển khai thực hiện Kết luận 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Bổ sung quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các cấp ủy trực thuộc Thành ủy.
Thành lập Ban Nội chính Thành ủy, sắp xếp các tổ chức cơ sở đảng phù hợp với sự lãnh đạo của cấp ủy cấp trên trực tiếp (35); sắp xếp các ban chỉ đạo, các tổ chức phối hợp liên ngành. Tiến hành thí điểm mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp; tăng thêm chức danh phó bí thư đảng ủy đối với một số phường, xã; sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động của tổ dân phố, thôn và tổ chức đảng dưới phường, xã.
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng từng bước được nâng lên, các cơ sở yếu kém được củng cố, kiện toàn; chất lượng sinh hoạt chi bộ được cải thiện, sinh hoạt chuyên đề được vận dụng triển khai có kết quả; vai trò bí thư chi bộ và cấp ủy được coi trọng. Công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể trong trường học, trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước được tăng cường. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên được thực hiện nghiêm túc (36). Phát triển đảng viên hằng năm tăng về số lượng và chất lượng (37). Tổ chức thực hiện nghiêm túc việc giới thiệu đảng viên đương chức về sinh hoạt, giữ mối liên hệ thường xuyên với cấp ủy nơi cư trú.
Công tác cán bộ có chuyển biến, quy trình tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm được thực hiện chặt chẽ; thí điểm thi tuyển một số chức danh cán bộ lãnh đạo quản lý (38); triển khai nhiều giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ, nhất là cấp cơ sở. Bổ sung cán bộ trẻ, cán bộ nữ vào ban chấp hành, ban thường vụ và thường trực cấp ủy các cấp, cơ bản đảm bảo sự chuyển giao kịp thời, ổn định giữa các thế hệ lãnh đạo. Chính sách cán bộ đảm bảo thực hiện kịp thời, công bằng, khách quan. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được tăng cường. Việc thẩm định lịch sử chính trị và chính trị hiện nay phục vụ công tác phát triển đảng và công tác cán bộ được thực hiện nghiêm túc, góp phần bảo vệ chính trị nội bộ Đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát được chú trọng trên cả mặt lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Tổ chức có hiệu quả các cuộc kiểm tra theo kế hoạch của Trung ương và Thành ủy. Ủy ban kiểm tra các cấp hoạt động khá nền nếp, đảm bảo đúng nguyên tắc Điều lệ Đảng, bám sát nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và công tác xây dựng Đảng; phương pháp kiểm tra, giám sát chủ động, linh hoạt, phù hợp với các loại hình tổ chức đảng, góp phần ngăn chặn và hạn chế tiêu cực, sai phạm của cán bộ, đảng viên, giữ gìn đoàn kết thống nhất, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra được nâng cao hơn trước.
Công tác dân vận được tăng cường, trách nhiệm của hệ thống chính trị đối với công tác dân vận được nâng cao, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội.
Công tác dân vận của các cơ quan chính quyền ngày càng được chú trọng. Nhiều phong trào của nhân dân đi vào chiều sâu thiết thực, nhất là phong trào “Dân vận khéo”, “Cả thành phố chung sức xây dựng nông thôn mới”. Chất lượng hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội bước đầu được triển khai và phát huy hiệu quả. Cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền đã có nhiều cuộc tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, lắng nghe và quan tâm giải quyết các kiến nghị, nguyện vọng của nhân dân.
Công tác nội chính được quan tâm kiện toàn về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, phát huy hiệu quả bước đầu trong việc triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng pháp luật, cải cách tư pháp, bảo vệ an ninh quốc gia và phòng chống tham nhũng; xử lý có kết quả những vụ án phức tạp, kéo dài, còn có ý kiến khác nhau và những vấn đề có liên quan trong hoạt động tư pháp. Triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống tham nhũng, tạo chuyển biến tích cực về nhận thức, ý thức trách nhiệm và tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Phương thức lãnh đạo của Đảng có nhiều đổi mới, phát huy sức mạnh tập thể, mở rộng dân chủ, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Vận dụng thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng phù hợp với tình hình của địa phương, chú trọng khâu tổ chức thực hiện kết hợp với tăng cường kiểm tra, giám sát. Quan tâm sơ kết, tổng kết, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp với thực tiễn (39). Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan chính quyền và xã hội được tăng cường, chỉ đạo toàn diện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, sự vận hành của hệ thống chính trị. Trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp được phát huy, chú trọng việc bám sát cơ sở, trực tiếp đối thoại, lắng nghe nhân dân, doanh nghiệp, từ đó đề ra chủ trương, định hướng xử lý kịp thời, đúng đắn, hợp lòng dân.
2- Công tác xây dựng chính quyền được đẩy mạnh; năng lực tổ chức thực hiện và hiệu lực quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách tư pháp đạt kết quả tích cực
Đoàn đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành phố tích cực đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tăng cường tiếp xúc, đối thoại và xử lý những kiến nghị, nguyện vọng của cử tri. Hoạt động giám sát và chất lượng các kỳ họp Hội đồng nhân dân được nâng cao, bám sát thực tiễn, lựa chọn những vấn đề bức xúc cử tri đặc biệt quan tâm, trên cơ sở đó đề ra nhiều quyết sách phù hợp để phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh trên địa bàn, nổi bật là tổ chức tốt các hội nghị giám sát giữa 2 kỳ họp được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Thành phố đã sắp xếp các cơ quan chuyên môn, đơn vị sự nghiệp hợp lý hơn, bộ máy chính quyền các cấp được củng cố, kiện toàn; sắp xếp, tinh gọn các ban giải tỏa đền bù, tái định cư, ban quản lý dự án phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục triển khai thực hiện chủ trương thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường. Tập trung xây dựng chính quyền các cấp vững mạnh, đặc biệt là hệ thống chính trị phường, xã. Triển khai Đề án phân bổ lại dân cư, sắp xếp nâng cao chất lượng hoạt động tổ dân phố, thôn.
Công tác cải cách hành chính có nhiều chuyển biến tích cực và đạt kết quả rõ nét. Hệ thống chính quyền điện tử bước đầu được hình thành từ thành phố đến các quận, huyện, sở, ngành, nhất là ứng dụng các dịch vụ công, góp phần nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục hành chính. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được nâng cao. Triển khai thực hiện nội dung “5 xây”, “3 chống” (40) theo Chỉ thị 29-CT/TU ngày 06-11-2013 của Ban Thường vụ Thành ủy đạt kết quả bước đầu.
Giai đoạn 2011 - 2014, thành phố luôn thuộc nhóm dẫn đầu và có kết quả tốt về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), xếp thứ nhất năm 2013, 2014; Chỉ số sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin (ICT) dẫn đầu 7 năm liên tiếp (2009 - 2015); Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) xếp thứ 1 giai đoạn 2012 - 2014, Chỉ số hiệu quả quản trị hành chính công cấp tỉnh (PAPI) liên tục nằm trong nhóm các tỉnh, thành phố đạt điểm cao nhất từ năm 2011 - 2014. Nhiều mô hình mới, cách làm hay về cải cách hành chính được Trung ương và các địa phương trong cả nước đánh giá cao (41).
Công tác cải cách tư pháp được chỉ đạo thực hiện theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX). Việc tham gia xây dựng dự thảo các văn bản luật được thực hiện đầy đủ và có chất lượng. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý được đẩy mạnh. Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, tranh tụng tại phiên tòa, thi hành án được nâng lên, khắc phục được tình trạng truy tố, xét xử oan, sai, hạn chế được tình trạng bỏ lọt tội phạm, giảm số vụ án và thi hành án dân sự tồn đọng, kéo dài, tạo chuyển biến tích cực trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Công tác tiếp công dân, tiếp nhận xử lý và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo có chuyển biến tích cực (42), tập trung giải quyết việc khiếu nại, tố cáo tồn đọng, kéo dài và các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp, không để xảy ra điểm nóng. Công tác thanh tra đi sâu vào những lĩnh vực nhạy cảm, bức xúc của xã hội, nhất là quản lý tài chính, quản lý đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản (43).
3- Nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, phát huy dân chủ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân
Vai trò của Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân không ngừng được nâng cao. Hệ thống tổ chức Mặt trận, các đoàn thể từ thành phố đến cơ sở được củng cố, kiện toàn. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước đối với công tác vận động nhân dân được đổi mới. Tập trung củng cố tổ chức cơ sở, phát triển hội viên, đoàn viên, xây dựng cốt cán phong trào. Vai trò, vị thế của Mặt trận, các đoàn thể được phát huy trong các phong trào an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, tạo sự đồng thuận xã hội, củng cố mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động hướng về cơ sở, đa dạng hóa các loại hình tập hợp quần chúng. Hoạt động Mặt trận và các đoàn thể quan tâm đến lợi ích thiết thực của hội viên, đoàn viên; giữ vững vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Đổi mới, đa dạng các hình thức tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Có nhiều sáng tạo trong công tác vận động, tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là các nhân sĩ, trí thức, doanh nhân, đồng bào các dân tộc, đồng bào có đạo, chức sắc tôn giáo tích cực đóng góp xây dựng, phát triển thành phố.
Thực hiện nhiều chủ trương, chính sách chăm lo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, nhất là địa bàn vùng núi, vùng đồng bào dân tộc, tôn giáo. Phát động, triển khai nhiều cuộc vận động, chương trình hành động, phong trào thi đua yêu nước mang lại hiệu quả thiết thực, như: Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”...
Nâng cao năng lực giám sát, phản biện xã hội đối với việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp. Các hội quần chúng đóng góp tích cực cho sự phát triển chung của thành phố, nhất là trên các lĩnh vực công tác xã hội, nhân đạo, từ thiện, giúp nhau trong sản xuất, đời sống, giáo dục truyền thống, khuyến học, khuyến tài, xây dựng đời sống văn hóa tại cộng đồng dân cư, tư vấn pháp luật, xây dựng nông thôn mới...
B- HẠN CHẾ, YẾU KÉM VÀ NGUYÊN NHÂN
I- Hạn chế, yếu kém
- Kinh tế tăng trưởng khá nhưng chưa thật bền vững. Quy mô nền kinh tế còn nhỏ (44), tích lũy để tái đầu tư chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, sức cạnh tranh và hiệu quả trên một số lĩnh vực còn thấp. Việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện 5 đột phá kinh tế - xã hội vẫn còn những hạn chế. Sức ảnh hưởng, lan tỏa và vai trò đầu tàu, cực phát triển của khu vực chưa rõ nét. Mô hình tăng trưởng chưa có thay đổi lớn, còn 4 chỉ tiêu do Đại hội XX đề ra chưa đạt (45).
Lĩnh vực du lịch chưa có nhiều sản phẩm độc đáo, đặc trưng so với tiềm năng, lợi thế. Chất lượng dịch vụ du lịch tuy có cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng tốt nhu cầu của du khách. Dịch vụ thương mại tuy phát triển nhưng chưa phát huy vai trò trung tâm bán buôn, phát luồng hàng hóa của khu vực. Năng lực, quy mô sản xuất công nghiệp chưa có bứt phá mạnh mẽ, công nghệ chậm được đổi mới, chưa chú trọng đúng mức công nghiệp phụ trợ; tiến độ xây dựng hạ tầng Khu Công nghệ cao, Khu Công nghệ thông tin tập trung chậm. Thu ngân sách chưa thực sự ổn định, còn để thất thu, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Kết quả thu hút các nguồn vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài còn thấp; phần lớn (96%) doanh nghiệp trên địa bàn có quy mô nhỏ, chưa hình thành được những ngành hàng, sản phẩm, doanh nghiệp chủ lực, có quy mô lớn. Lợi thế về kinh tế biển, vai trò thành phố cảng biển, đầu mối trung chuyển, quá cảnh, giao lưu hàng hóa ở khu vực chưa được tập trung khai thác và phát huy hiệu quả.
Kết cấu hạ tầng đô thị tuy được đầu tư phát triển nhanh, nhưng có mặt chưa đồng bộ. Tiến độ đầu tư, xây dựng một số dự án, công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm còn chậm (46). Nhiều đồ án quy hoạch của thành phố (47), dự án của các nhà đầu tư (48) qua nhiều năm không triển khai hoặc triển khai chậm, kéo dài, gây lãng phí nguồn tài nguyên, làm ô nhiễm môi trường, gây bức xúc và ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân dân. Một số điểm nóng về ô nhiễm môi trường, ngập úng cục bộ chưa được xử lý dứt điểm (49). Quá trình vận dụng, thực thi một số chủ trương, chính sách về lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai có mặt còn khuyết điểm.
Lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật chưa được đầu tư phát triển tương xứng với kinh tế và nhu cầu thụ hưởng của người dân. Công trình thiết chế văn hóa còn thiếu, phân bổ chưa đều; tỷ lệ diện tích đất dành cho mục đích công cộng thấp. Văn minh đô thị chuyển biến chậm, có mặt còn bức xúc. Chủ trương xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao đạt kết quả chưa cao. Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn còn một số hạn chế, chưa gắn kết chặt chẽ giữa thu hút và đào tạo, giữa đào tạo và sử dụng. Năng lực khoa học và công nghệ của thành phố chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế; thiếu sự liên kết giữa nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo với sản xuất, kinh doanh. Việc chuyển đổi ngành nghề, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho một bộ phận dân cư thuộc diện di dời giải tỏa thực hiện chưa tốt.
- An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn phức tạp. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, biên phòng toàn dân và xây dựng khu vực phòng thủ có mặt chưa thật vững chắc; phát triển kinh tế gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh trong một số lĩnh vực chưa chặt chẽ. Tội phạm, tệ nạn xã hội, ma túy vẫn diễn biến phức tạp; tai nạn giao thông tuy có giảm nhưng chưa cơ bản.
- Kết quả công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế. Việc thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, nhất là việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa đạt được kết quả như mong muốn. Công tác chính trị tư tưởng có lúc, có nơi còn bị động, chưa kịp thời định hướng dư luận trước những vấn đề xã hội quan tâm. Công tác đấu tranh phòng, chống diễn biến hòa bình, phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch chưa đáp ứng yêu cầu và thực tiễn đặt ra.
Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp được nâng lên, nhưng vẫn chưa thực sự đáp ứng yêu cầu. Công tác quy hoạch, đào tạo, luân chuyển cán bộ chưa được quan tâm đúng mức, chưa tạo được tính kế thừa, đôi lúc còn hẫng hụt khi có thay đổi về nhân sự. Tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý còn thấp. Nhận thức và chuyển biến của một số cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra về công tác kiểm tra, giám sát chưa cao; kiểm tra dấu hiệu vi phạm thực hiện còn ít; chưa coi trọng kiểm tra phòng ngừa, phát huy nhân tố tích cực, điển hình. Phương thức lãnh đạo của cấp ủy và chính quyền cùng cấp có lúc, có nơi chưa thật đồng bộ. Công tác xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên ở địa bàn khu dân cư, trong doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước gặp nhiều khó khăn. Một số chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng triển khai thực hiện chưa hiệu quả và chậm đi vào thực tiễn. Việc thực hiện thí điểm chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cùng cấp chưa phát huy hiệu quả trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Công tác cải cách thủ tục hành chính còn chậm; công tác phối hợp giữa các đơn vị và việc kiểm tra, giám sát trong tổ chức thực hiện còn bất cập. Một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa thật sự chuyên nghiệp, trách nhiệm công vụ chưa cao. Hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm cũng như công tác cải cách tư pháp còn hạn chế, chưa đồng bộ; trình độ, năng lực một bộ phận cán bộ tư pháp chưa đáp ứng kịp yêu cầu của nhiệm vụ.
Hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa đồng bộ; nội dung, phương thức hoạt động tuy có đổi mới nhưng có mặt còn hạn chế. Công tác tập hợp quần chúng chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa phát huy tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Vai trò của một số đoàn thể tại cơ sở chưa thực sự rõ nét. Công tác tuyên truyền, vận động chưa đi vào chiều sâu, đôi lúc chưa thật sát dân, sát cơ sở. Số lượng hội, đoàn viên có tăng nhưng chất lượng chưa cao. Công tác phát triển tổ chức hội đoàn viên trong doanh nghiệp ngoài nhà nước, trong một số đối tượng đặc thù còn yếu. Lực lượng cốt cán chính trị ở cơ sở chưa phát huy hết vai trò, chất lượng chưa đảm bảo yêu cầu.
II- Nguyên nhân hạn chế, yếu kém
- Về khách quan, các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật chưa đáp ứng quá trình phát triển, đô thị hóa của đất nước; chưa tạo điều kiện phát huy tiềm năng, lợi thế của địa phương. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, căng thẳng do tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông, tác động của khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế, quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thị trường hạn hẹp, thiên tai, dịch bệnh, cùng nhiều vấn đề phát sinh khác đã ảnh hưởng lớn đến nỗ lực của thành phố trong việc lãnh đạo, điều hành các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư trong và ngoài nước.
- Về chủ quan, việc quán triệt chủ trương của Đảng chưa sâu, tổ chức thực hiện chưa tốt. Công tác xúc tiến đầu tư hiệu quả chưa cao. Cụ thể hóa, triển khai thực hiện 5 đột phá về kinh tế - xã hội theo Nghị quyết Đại hội XX chưa quyết liệt. Khả năng phân tích, dự báo còn hạn chế, chưa dự lường được tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu, cùng nhiều khó khăn phát sinh ngoài dự kiến, nên nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2010 - 2015 được đề ra khá cao, khó thực hiện. Chưa phối hợp tốt với các bộ, ban, ngành Trung ương trong thể chế hóa các cơ chế, chính sách ưu đãi, đặc thù nhằm tạo động lực để Đà Nẵng phát triển nhanh và bền vững hơn.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác tổ chức bộ máy và cán bộ chưa thật sự đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố. Phân công, phân cấp chưa hợp lý; công tác phối hợp, chỉ đạo, điều hành giữa các cấp, các ngành còn thiếu đồng bộ; chưa phát huy tốt vai trò của các cơ quan chuyên môn trong việc tổ chức quản lý và tham mưu. Tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và ý thức tổ chức kỷ luật, tính tự giác, năng động, sáng tạo của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức các cấp vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
C- ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
I- Đánh giá chung
Năm năm qua, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, Đảng bộ, quân và dân thành phố đã nỗ lực phấn đấu và đạt được những kết quả quan trọng. Nổi bật là tình hình chính trị thành phố luôn ổn định, nội bộ đoàn kết, nhân dân đồng thuận, kinh tế - xã hội phát triển, quốc phòng, an ninh được củng cố, công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tăng cường.
Trước những khó khăn về kinh tế - xã hội, thành phố đã kịp thời điều chỉnh, đổi mới phương thức lãnh đạo, điều hành có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, sát với tình hình thực tiễn; tăng cường kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện, kịp thời giải quyết các vướng mắc; đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lòng dân; huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân và tranh thủ các nguồn lực để đầu tư phát triển thành phố; đẩy mạnh hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng nguồn thu cho ngân sách. Kết quả, kinh tế duy trì được mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; chất lượng tăng trưởng một số mặt được cải thiện, môi trường đầu tư thông thoáng. Hoạt động đối ngoại được mở rộng, vị thế thành phố ngày càng được nâng cao.
Các ngành dịch vụ phát triển nhanh, nhất là dịch vụ du lịch có nhiều khởi sắc. Thu hút đầu tư phát triển công nghiệp công nghệ cao đạt kết quả bước đầu, góp phần định hình một số ngành, sản phẩm có giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ cao, làm động lực phát triển kinh tế thành phố. Huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, đô thị đạt kết quả tốt, nhiều công trình trọng điểm quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp được hoàn thành đưa vào sử dụng, tạo diện mạo mới về đô thị theo hướng văn minh, bền vững, thân thiện. Chủ trương xây dựng nông thôn mới được tập trung thực hiện, có khả năng về đích sớm so với kế hoạch đề ra. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển khá, phù hợp với phát triển kinh tế và vị thế mới của thành phố. Nhiều chính sách an sinh, phúc lợi xã hội mang đậm tính nhân văn, gắn với Chương trình thành phố “5 không” và “3 có” được triển khai có hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, nhất là đối tượng chính sách, hộ nghèo. Công tác phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, tạo chuyển biến và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khu vực công của thành phố.
Quốc phòng, an ninh được tăng cường, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; chủ động phòng ngừa, đấu tranh với các loại tội phạm. Công tác xây dựng Đảng đạt nhiều kết quả quan trọng. Hệ thống chính trị được củng cố và hoạt động ngày càng hiệu quả. Công tác cải cách hành chính, nâng cao trách nhiệm, hiệu lực quản lý, điều hành của chính quyền các cấp có chuyển biến rõ nét. Công tác phòng, chống tham nhũng, cải cách tư pháp được quan tâm thực hiện. Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể tiếp tục được đổi mới, hướng về cơ sở, chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần củng cố và làm nổi bật mối quan hệ cốt lõi giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị với nhân dân, đó là: “Đảng nói, dân tin; Mặt trận, đoàn thể vận động, dân theo; Chính quyền làm, dân ủng hộ”.
Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, quy mô nền kinh tế còn nhỏ, tích lũy để tái đầu tư còn hạn chế. Chất lượng tăng trưởng nhiều mặt còn thấp, chậm được cải thiện. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt thấp; phần lớn doanh nghiệp thành phố có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, chưa hình thành được những ngành hàng, sản phẩm, doanh nghiệp chủ lực, có quy mô lớn. Nguồn lực đầu tư còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng đô thị có mặt chưa đồng bộ. Chất lượng giáo dục và đào tạo, nguồn nhân lực chưa đồng đều; các lĩnh vực văn hóa, văn nghệ phát triển chưa ngang tầm với tiềm năng, lợi thế của thành phố; các thiết chế văn hóa chậm được quan tâm đầu tư. Đời sống, việc làm của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, mức sống chậm được cải thiện. Tình hình trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông còn diễn biến phức tạp. Công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trên một số mặt còn hạn chế. Vai trò động lực, liên kết khu vực và sức lan tỏa còn yếu.
II- Bài học kinh nghiệm
Một là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước; xác định đúng nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp đột phá để tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ; phát huy vai trò người đứng đầu và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tranh thủ sự lãnh đạo, hỗ trợ, giúp đỡ của Trung ương, các ban, bộ, ngành, Quân khu V và các địa phương bạn trong quá trình xây dựng, phát triển thành phố.
Hai là, thường xuyên xây dựng, củng cố đoàn kết, thống nhất trong Đảng bộ và đồng thuận sâu rộng trong toàn xã hội; huy động sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế và các nguồn lực của địa phương.
Ba là, nắm vững và quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân. Các chủ trương, chính sách đề ra phải có lợi cho dân, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
PHẦN THỨ HAI
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ NHIỆM KỲ 2015 - 2020
A- BỐI CẢNH
Trong nhiệm kỳ đến, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ; việc tham gia các hiệp định thương mại, cộng đồng kinh tế quốc tế(50) mở ra nhiều cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Công cuộc đổi mới đất nước tiếp tục được đẩy mạnh toàn diện. Đảng bộ và nhân dân thành phố đoàn kết, phấn khởi, có quyết tâm cao; sự đồng thuận trong nhân dân được phát huy; kinh tế, chính trị ổn định, tiềm lực, vị thế được nâng cao; có nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý… Đó là những nguồn lực quan trọng để thành phố phát triển nhanh trong giai đoạn đến.
Tuy nhiên, tình hình chính trị - an ninh thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng, biến động khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ tiếp tục diễn ra gay gắt; chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch tiềm ẩn nhiều yếu tố khó dự lường, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có chiều hướng ngày càng phức tạp. Việc huy động các nguồn lực đầu tư phát triển gặp nhiều khó khăn. Quy luật kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế cũng có tác động tiêu cực đến tư tưởng, văn hóa, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân. Những vấn đề an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp sẽ gây ra những ảnh hưởng nhất định. Tình hình đó đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố phải nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ, quyết liệt hơn.
B- MỤC TIÊU VÀ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU ĐẾN NĂM 2020
Mục tiêu tổng quát
Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, giữ vững ổn định chính trị, phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, năng động, sáng tạo, huy động mọi nguồn lực xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế, văn hóa - xã hội, động lực phát triển của khu vực miền Trung - Tây Nguyên; là địa bàn giữ vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh của cả nước; phấn đấu xây dựng Đà Nẵng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại.
Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 (tính theo phương pháp giá cơ bản)
- Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GRDP) tăng bình quân 8 - 9%/năm.
- GRDP bình quân đầu người ước đạt 4.000 - 4.500 USD.
- Cơ cấu GRDP: Dịch vụ 63 - 65%; Công nghiệp - Xây dựng 35 - 37% và Nông nghiệp 1 - 2%.
- Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 9,5 - 10,5%/năm.
- Giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 10 - 11%/năm (trong đó, công nghiệp tăng 10,5 - 11,5%/năm).
- Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng bình quân 2 - 3%/năm.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng bình quân 15 - 16%/năm.
- Tổng thu ngân sách Nhà nước tăng bình quân 5 - 8%/năm; tổng chi ngân sách Nhà nước tăng bình quân 2 - 3%/năm.
- Tổng vốn đầu tư phát triển tăng bình quân 9 - 10%/năm.
- Giảm tỷ suất sinh 0,1‰/năm.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 50 - 55%; tỷ lệ tạo việc làm tăng thêm bình quân 4 - 5%/năm.
- Hoàn thành Đề án giảm nghèo của thành phố giai đoạn 2016-2020 (51).
- Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch 95 - 100%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn đạt 95 - 98%.
- Hằng năm phát triển trên 2.000 đảng viên mới, không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém.
Ba đột phá về phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2015 - 2020
- Một là, phát triển mạnh các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, thương mại; tập trung thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin.
- Hai là, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và có trọng điểm; tập trung xây dựng và phát triển văn hóa, văn minh đô thị, xây dựng thành phố môi trường.
- Ba là, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
C- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
I- Về kinh tế - xã hội
1- Phát triển kinh tế nhanh, bền vững gắn với tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao quy mô, chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế
Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Kết luận 75-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI), Đề án tái cơ cấu kinh tế, Đề án phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, công nghiệp - xây dựng, nông nghiệp. Trọng tâm là:
- Phát triển nhanh và bền vững các ngành dịch vụ; đẩy mạnh thực hiện Đề án phát triển dịch vụ đến năm 2020, xây dựng Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm thương mại dịch vụ, du lịch chất lượng cao của khu vực và cả nước.
Tiếp tục đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thương mại theo hướng văn minh, hiện đại; đôn đốc thi công, hoàn chỉnh các dự án hạ tầng thương mại chậm tiến độ; xúc tiến đầu tư Trung tâm thương mại chợ Cồn, chợ Hàn và các tuyến phố chuyên doanh, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng, mua sắm của nhân dân và du khách. Mở rộng, phát triển đa dạng các hệ thống phân phối, mạng lưới bán lẻ hướng đến phục vụ trực tiếp người tiêu dùng tại các khu dân cư, địa bàn điểm (ký túc xá sinh viên, khu lưu trú công nhân…) và vùng nông thôn (52). Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 17 - 18%/năm. Thực hiện có hiệu quả Chương trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, xúc tiến mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới, thị trường tiềm năng, gia tăng thị phần tại thị trường truyền thống, giữ vững đà tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu. Phát huy vai trò Trung tâm thương mại điện tử; xây dựng và triển khai đề án thành lập Trung tâm giao dịch hàng hóa (nông sản, thủy sản, vật liệu xây dựng...) ở khu vực.
Tạo điều kiện thu hút đầu tư phát triển du lịch bền vững, tương xứng với ngành mũi nhọn. Quy hoạch tổng thể và thúc đẩy triển khai các dự án khu du lịch (bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Bà Nà, Làng Vân); hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch, ưu tiên thu hút đầu tư các dự án trọng điểm (53), hình thành trung tâm du lịch ven biển tầm cỡ quốc gia, quốc tế. Tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch, mở thêm các đường bay quốc tế trực tiếp đến Đà Nẵng; đẩy mạnh liên kết, hợp tác trong hoạt động du lịch, tạo không gian du lịch cho toàn vùng. Tập trung phát triển các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng cao cấp trở thành sản phẩm du lịch chủ lực của Đà Nẵng; kết nối văn hóa với du lịch để tạo ra những sản phẩm du lịch đặc trưng của thành phố; nâng cấp và xây dựng mới các sản phẩm du lịch sinh thái, văn hóa, lịch sử, lễ hội, công vụ và thành phố sự kiện (54); khai thác, làm phong phú sản phẩm du lịch, như: khu mua sắm, trung tâm giải trí tổng hợp, phát triển các làng nghề, lễ hội dân gian vùng biển, nghệ thuật điêu khắc đá... Tổng lượt khách du lịch tăng 13 - 14%/năm, phấn đấu đến năm 2020 đón trên 8 triệu lượt khách.
Nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ quan trọng, như: tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin - truyền thông, giáo dục - đào tạo, y tế chuyên sâu, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển. Tập trung phát triển các loại hình vận tải, dịch vụ cảng - logistics, phấn đấu đưa Đà Nẵng trở thành trung tâm dịch vụ logistics của khu vực và cả nước. Có giải pháp phù hợp phát triển các ngành dịch vụ tư vấn pháp lý, quy hoạch, kiến trúc, xây dựng, khoa học - công nghệ, thể dục - thể thao và thị trường chứng khoán, bất động sản, lao động.
- Tập trung phát triển các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, nhất là các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ thông tin. Hoàn thành cơ bản kết cấu hạ tầng và có cơ chế, chính sách đặc biệt thu hút đầu tư vào Khu Công nghệ cao, Khu Công nghệ thông tin tập trung, Công viên phần mềm số 2, Khu đô thị công nghệ FPT. Có chính sách khuyến khích phát triển mạnh công nghiệp phụ trợ, các sản phẩm chủ lực, có lợi thế cạnh tranh và tạo ra giá trị gia tăng cao; hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong sản xuất kinh doanh. Tiếp tục rà soát, thúc đẩy tiến độ triển khai các dự án trong và ngoài các khu công nghiệp. Quy hoạch, kêu gọi đầu tư xây dựng 1 - 2 cụm công nghiệp để bố trí cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
- Tăng cường nguồn lực đầu tư để phát triển Đà Nẵng trở thành một trung tâm kinh tế biển; tập trung rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển; khai thác bền vững, có hiệu quả tài nguyên biển đảo, gắn với bảo vệ môi trường biển. Tập trung đầu tư nâng cấp cả về quy mô, chất lượng hệ thống cảng biển, phát triển Cảng Đà Nẵng trở thành cảng tổng hợp quốc gia, đầu mối khu vực (loại I); nâng cấp Cảng Tiên Sa giai đoạn 2; phấn đấu sản lượng hàng hóa qua khu vực Cảng Đà Nẵng tăng 8-10%/năm, sản lượng năm 2020 đạt 10 triệu tấn. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân đóng tàu công suất lớn, tăng cường bám biển, nâng cao năng lực khai thác hải sản xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo; phát triển ngành công nghiệp chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá, bao tiêu sản phẩm.
- Đẩy nhanh cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển toàn diện cả về nông, lâm nghiệp và thủy sản theo hướng hiện đại. Tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất và chế biến, tạo ra các vùng chuyên canh ứng dụng công nghệ cao, phục vụ cho du lịch và đô thị trung tâm. Quan tâm công tác bảo vệ, phát triển rừng. Tiếp tục đầu tư hỗ trợ nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, nhất là tiêu chí về hình thức tổ chức sản xuất, thu nhập, giảm nghèo bền vững, môi trường…
- Tiếp tục đổi mới, quản lý lành mạnh hệ thống tài chính, rà soát lại khả năng thu để có biện pháp thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào ngân sách, đi đôi với nuôi dưỡng, tạo nguồn thu ổn định, bền vững, chống thất thu và thu hồi nợ đọng, phấn đấu tổng thu ngân sách Nhà nước tăng bình quân 5-8%/năm, đến năm 2020 thu nội địa đạt 15.000 tỷ đồng/năm. Bố trí chi ngân sách phù hợp với khả năng cân đối và yêu cầu phát triển, ưu tiên nguồn lực cho đầu tư phát triển và các nhiệm vụ trọng yếu, tăng đầu tư sự nghiệp văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, ngăn ngừa thất thoát, lãng phí trong chi tiêu ngân sách. Bố trí tăng dự trữ ngân sách để xử lý những trường hợp thiên tai, dịch bệnh và các nhiệm vụ chi cấp bách phát sinh.
2- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quy hoạch và quản lý đô thị; tiếp tục đầu tư phát triển nhanh, đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng, xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng văn minh, hiện đại, có môi trường sống tốt
- Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, không gian kiến trúc, môi trường đô thị thành phố đến năm 2020; quy hoạch chung đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển chung của vùng và các nghị quyết Trung ương có liên quan. Rà soát, khớp nối, bổ sung quy hoạch phát triển không gian đô thị thành phố theo hướng mở rộng về phía Đông Bắc, phía Tây (Tây Nam, Tây Bắc) và phía Nam thành phố, có quy mô thích hợp, có phân khu chức năng hợp lý, quy hoạch các trung tâm chuyên ngành, khu vực đô thị lõi trung tâm thành phố, tạo nền tảng hình thành đô thị hiện đại, hài hòa với thiên nhiên, tạo những điểm nhấn đa dạng về cảnh quan. Ban hành các quy định, quy chế về quản lý quy hoạch, quản lý kiến trúc, thiết kế đô thị. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai; rà soát và xóa bỏ các dự án do địa phương quản lý cũng như kiến nghị với Trung ương đối với các dự án quy hoạch treo, không hiệu quả, ảnh hưởng đến cuộc sống người dân; kiên quyết thu hồi đất dự án của các nhà đầu tư chậm triển khai.
- Tích cực triển khai Chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW ngày 16-01-2012 của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Chủ động phối hợp với các bộ, ban, ngành Trung ương, các địa phương trong vùng đẩy nhanh tiến độ chuẩn bị đầu tư và triển khai các công trình, dự án đã xác định trong Nghị quyết 33-NQ/TW, Kết luận 75-KL/TW của Bộ Chính trị và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, như: Trung tâm Hội nghị Quốc tế (phục vụ Tuần lễ cấp cao APEC 2017), nâng cấp Sân bay quốc tế Đà Nẵng, di dời ga đường sắt, mở rộng Hầm lánh nạn Hải Vân, cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi, La Sơn - Túy Loan, mở rộng Quốc lộ 14B giai đoạn 2 và cải tạo, mở rộng Quốc lộ 14G, Quốc lộ 14D... Huy động mọi nguồn lực đầu tư, kể cả vốn nước ngoài dưới hình thức đối tác công tư (PPP) để đầu tư xây dựng một số dự án, như: Nhà máy nước Hòa Liên giai đoạn 1 (120.000m3/ngày - đêm), dự án xử lý chất thải rắn, Cảng Liên Chiểu giai đoạn 1 và một số dự án hạ tầng quan trọng khác. Đẩy nhanh phát triển hạ tầng văn hóa, thể thao, vui chơi, giải trí, kết hợp chặt chẽ việc quản lý theo ngành và theo lãnh thổ các thiết chế văn hóa.
Tiếp tục nâng cấp, cải tạo mạng lưới giao thông nội thị, nhất là một số nút giao thông trọng điểm có nguy cơ ùn tắc; tập trung quản lý, bảo trì và nâng cấp các trục đường chính và một số tuyến đường nội đô quan trọng; phát triển hệ thống giao thông tĩnh. Quy hoạch, đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông công cộng gắn kết với các công trình ngầm (xe buýt nhanh BRT, bãi đỗ xe ngầm), tổ chức quản lý giao thông khoa học. Đẩy nhanh hiện đại hóa và ngầm hóa đường dây điện, dây điện thoại, cáp viễn thông, cáp truyền hình tại khu vực trung tâm và một số tuyến đường lớn. Nghiên cứu thiết kế kiến trúc tổng thể, cải tạo cảnh quan hai bờ sông Hàn; nâng cấp kiệt, hẻm, cải tạo nhà ở xuống cấp trong khu vực trung tâm và thảm nhựa các tuyến đường trong các khu dân cư mới.
- Tăng cường quản lý trật tự đô thị, thiết lập trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực quy hoạch, quản lý quy hoạch, kiến trúc, xây dựng, quảng cáo, vỉa hè, lòng lề đường... Kiên trì thực hiện có hiệu quả Đề án “Xây dựng Đà Nẵng - Thành phố môi trường”, Chương trình hành động của thành phố về ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng, Dự án Phát triển bền vững (đường vành đai phía Nam, hệ thống xe buýt nhanh BRT, hệ thống thoát nước và các trạm xử lý nước thải Hòa Xuân, Sơn Trà, Liên Chiểu). Quản lý chặt chẽ, ngăn chặn kịp thời các hành vi khai thác tài nguyên trái phép. Chủ động phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai; từng bước hình thành các tiêu chuẩn xây dựng công trình thích ứng với biển đổi khí hậu. Nghiên cứu, triển khai các biện pháp sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả. Đẩy mạnh thực hiện Đề án thu gom rác thải theo giờ, phong trào “Ngày Chủ nhật xanh - sạch - đẹp”; giải quyết cơ bản tình trạng ngập úng, ô nhiễm tại các khu dân cư, xử lý nước thải các khu, cụm công nghiệp, các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm, không để phát sinh các điểm ô nhiễm mới. Đầu tư hoàn thiện mạng lưới cung cấp nước sạch, hạ tầng thu gom nước thải đô thị, từng bước tách riêng hệ thống thoát nước mưa và nước thải (55). Tập trung phát triển cây xanh theo quy hoạch; tăng tỷ lệ trồng rừng kinh tế, tăng độ che phủ rừng.
3- Thực hiện linh hoạt, đồng bộ cơ chế, chính sách; tăng cường thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính theo hướng công khai, minh bạch, tạo môi trường đầu tư thông thoáng để thu hút mạnh mọi nguồn lực đầu tư vào những ngành, lĩnh vực phù hợp với quy hoạch phát triển thành phố, giảm tỷ trọng vốn đầu tư từ ngân sách, tăng tỷ trọng vốn từ các thành phần kinh tế. Tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng để phát triển các thành phần kinh tế; có cơ chế, chính sách thu hút các tập đoàn, tổng công ty lớn thành lập hoặc chuyển hội sở chính đến thành phố; khuyến khích, hỗ trợ phát triển một số doanh nghiệp “đầu đàn”, có quy mô lớn, có sản phẩm chủ lực, mang thương hiệu thành phố, tạo động lực nâng cao năng lực cạnh tranh. Chú trọng triển khai chương trình khởi nghiệp; hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các nguồn lực về vốn, đất đai, thông tin công nghệ, tìm kiếm thị trường, chủ động hội nhập quốc tế trong bối cảnh tham gia các hiệp định thương mại, cộng đồng kinh tế quốc tế. Phát huy hiệu quả Quỹ Đầu tư phát triển, Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa, tập trung cho vay đối với các doanh nghiệp theo lĩnh vực ưu tiên, các doanh nghiệp khởi nghiệp.
- Phối hợp các bộ, ban, ngành Trung ương nhanh chóng cụ thể hóa triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về một số cơ chế ưu đãi đặc thù về đầu tư, tài chính, ngân sách và phân cấp quản lý đối với thành phố Đà Nẵng; tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ các dự án chậm triển khai. Tích cực triển khai cơ chế đặc thù huy động vốn, tập trung hoàn thành các khu chức năng quan trọng của Khu Công nghệ cao. Tiếp tục khai thác có hiệu quả các nguồn lực từ đất đai, đầu tư nước ngoài, hình thức đối tác công tư (PPP) để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng.
- Tích cực phối hợp với các địa phương kiến nghị, đề xuất Trung ương xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù để tăng cường liên kết, phát triển vùng; khai thác hiệu quả chương trình hợp tác Tiểu vùng sông Mêkông và Hành lang kinh tế Đông Tây; xúc tiến triển khai dự án Hành lang kinh tế Đông Tây 2... Triển khai thực hiện các cam kết đã ký kết với các địa phương trong vùng về liên kết đầu tư, khai thác, sử dụng hiệu quả hệ thống cảng biển, sân bay, kết cấu hạ tầng giao thông, các khu công nghiệp; liên kết phát triển du lịch, khai thác và chế biến tài nguyên biển; liên kết đào tạo nguồn nhân lực; bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; trong đảm bảo quốc phòng, an ninh...
- Chủ động phối hợp tổ chức thành công các sự kiện mang tầm khu vực và quốc tế tại Đà Nẵng, như: Đại hội thể thao bãi biển châu Á lần thứ 5 năm 2016, Tuần lễ cấp cao APEC 2017..., góp phần quảng bá hình ảnh của thành phố trong khu vực và trên thế giới. Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế, tận dụng mọi cơ hội để phát triển kinh tế, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư để thu hút các nguồn vốn FDI từ các nhà đầu tư lớn, có công nghệ cao, công nghệ nguồn, dịch vụ cao cấp. Đẩy mạnh xúc tiến, tranh thủ tối đa và quản lý hiệu quả nguồn vốn ODA để đầu tư các công trình trọng điểm, quy mô lớn. Kết hợp chặt chẽ đối ngoại với quốc phòng, an ninh, tranh thủ sự ủng hộ, đồng tình của cộng đồng quốc tế, kiên quyết đấu tranh giữ vững chủ quyền biển, đảo.
4- Phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội, tập trung xây dựng văn hóa, văn minh đô thị, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân
- Triển khai có hiệu quả Chương trình hành động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về phát triển văn hóa và Chỉ thị 43-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về thực hiện “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015”. Xây dựng môi trường, đời sống văn hóa và con người Đà Nẵng phù hợp với văn minh đô thị. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí cho hoạt động văn hóa, văn học - nghệ thuật, tương xứng với vị trí đô thị loại I cấp quốc gia; tập trung xây dựng một số công trình văn hóa trọng điểm như: Nhà hát lớn, Bảo tàng Mỹ thuật, Trung tâm văn hóa thành phố và các thiết chế văn hóa cơ sở (56). Đầu tư tôn tạo, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đáp ứng nhu cầu đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Phát triển toàn diện, tạo điều kiện để văn học - nghệ thuật phát triển mạnh mẽ, với những tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật xứng tầm. Tăng cường vai trò định hướng thông tin, quản lý và nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan báo chí, xuất bản, phát thanh - truyền hình; tiếp tục đầu tư các cơ quan báo đài thành phố, nhất là Báo Đà Nẵng, Đài Phát thanh - Truyền hình Đà Nẵng theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại.
Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thực hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, các quy định về việc cưới, tang, lễ hội. Rà soát, bổ sung, điều chỉnh các tiêu chí, quy định, quy trình tổ chức xét và công nhận các danh hiệu văn hóa, đảm bảo thực chất, không chạy theo số lượng. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát, ngăn chặn và xử lý kịp thời tình trạng buôn bán hàng rong, xin ăn biến tướng, chèo kéo, quảng cáo rao vặt làm ảnh hưởng không tốt đến môi trường du lịch. Thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về văn hóa.
- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Phát triển mạng lưới trường học theo cơ cấu hợp lý giữa các ngành học, cấp học, vừa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân, vừa phù hợp với định hướng xã hội hóa giáo dục. Tiếp tục quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, phấn đấu tăng tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia các cấp học, thực hiện dạy học 02 buổi/ngày cho 100% học sinh tiểu học. Quan tâm đào tạo đội ngũ giáo viên, nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học, bậc học, chú trọng khu vực ngoại thành. Tiếp tục đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Xúc tiến nhanh việc thành lập trường Đại học Việt - Anh. Phối hợp xây dựng Đại học Đà Nẵng xứng đáng là đại học trọng điểm quốc gia, đẩy nhanh tiến độ xây dựng Làng Đại học Đà Nẵng; tạo điều kiện, khuyến khích phát triển các trường quốc tế chất lượng cao, các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho Đà Nẵng và khu vực, chuyển dần nhận thức của xã hội từ học để có bằng cấp sang học để có nghề nghiệp; tạo cơ chế triển khai thực hiện Chiến lược phát triển dạy nghề giai đoạn 2011 - 2020 theo yêu cầu, tiêu chí của doanh nghiệp, trung bình mỗi năm đào tạo nghề 45.000 lao động. Phát triển thị trường lao động đủ mạnh về số lượng, trình độ và cơ cấu nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và hội nhập quốc tế.
- Tạo chuyển biến mới trong nhận thức và chỉ đạo, thực hiện để phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ. Phối hợp xúc tiến đầu tư xây dựng Khu nghiên cứu - phát triển, đào tạo và ươm tạo doanh nghiệp tại Khu Công nghệ cao, Trung tâm Công nghệ sinh học khu vực miền Trung, Trung tâm Thông tin khoa học và công nghệ Đà Nẵng. Tăng đầu tư nhà nước cho Quỹ phát triển khoa học công nghệ tương xứng với yêu cầu; gắn kết nghiên cứu, đào tạo với sản xuất - kinh doanh theo phương thức nghiên cứu theo đơn đặt hàng với các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu và khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư nghiên cứu, phát triển đổi mới công nghệ, xây dựng thương hiệu. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, phát triển công nghệ cao, trước hết là công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vi điện tử, cơ khí chính xác, công nghệ tự động hóa...; phát huy vai trò khoa học - xã hội và nhân văn. Đến năm 2020, tỷ lệ giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp; tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị công nghệ đạt trên 20%/năm.
- Tiếp tục đầu tư phát triển sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở, đủ khả năng phát hiện và điều trị kịp thời các bệnh theo tuyến kỹ thuật; đến năm 2020 đạt 15 bác sỹ và 66,33 giường bệnh/10.000 dân. Phát triển y tế chuyên sâu, bệnh viện chuyên khoa, theo hướng xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm khám, chữa bệnh chất lượng cao. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng; xúc tiến đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng giai đoạn 2, Trung tâm Tim mạch (Bệnh viện Đà Nẵng) và một số bệnh viện quốc tế chất lượng cao... Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực y tế đi đôi với tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát hệ thống y tế ngoài công lập. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân đạt 100% vào năm 2020. Tăng cường tuyên truyền, thanh tra, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, giáo dục các chủ trương, chính sách, pháp luật dân số - kế hoạch hóa gia đình(57).
- Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động thể dục - thể thao; phát triển quy mô và chất lượng thể thao quần chúng. Tiếp tục duy trì và đẩy mạnh phát triển các môn thể thao giải trí, thể thao biển kết hợp với du lịch. Đổi mới và tăng cường công tác huấn luyện, đào tạo, tập huấn trong và ngoài nước nhằm phát triển, nâng cao thành tích thi đấu thể thao thành tích cao, nhất là đối với đội bóng đá Đà Nẵng. Chuẩn bị tốt lực lượng để tham gia và cải thiện thành tích thi đấu tại Đại hội Thể dục - Thể thao toàn quốc lần thứ VIII - 2018. Tập trung đầu tư hoàn thành cơ bản Khu liên hợp thể dục - thể thao Hòa Xuân.
- Tiếp tục thực hiện đồng bộ và có hiệu quả chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, Chỉ thị 24-CT/TU, Chỉ thị 25-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy và các chính sách an sinh xã hội đang triển khai, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Hỗ trợ, tạo điều kiện cho hộ gia đình chính sách, hộ nghèo có phương tiện sinh kế để sản xuất; trợ giúp việc học tập, học nghề, chuyển đổi nghề, giải quyết việc làm, nhất là các hộ trong diện thu hồi đất sản xuất. Tập trung nguồn lực thực hiện giảm nghèo bền vững, xây dựng Đề án giảm nghèo theo chuẩn mới sau khi hoàn thành mục tiêu xóa hộ nghèo hiện nay. Tiếp tục thực hiện tốt Pháp lệnh ưu đãi Người có công với cách mạng; duy trì 100% xã, phường làm tốt công tác thương binh - liệt sĩ, 100% gia đình chính sách của thành phố có nhà ở ổn định, có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư địa phương nơi cư trú. Tạo môi trường an toàn, lành mạnh để trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được bảo vệ, chăm sóc; ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em.
Tiếp tục thực hiện Đề án “Có việc làm”, phát huy hiệu quả trung tâm giới thiệu việc làm, nâng cao chất lượng, hiệu quả các phiên giao dịch việc làm định kỳ, cung cấp thông tin, dự báo, kết nối cung - cầu lao động trong thành phố và các địa phương trong khu vực. Khuyến khích, tạo điều kiện các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, giải quyết thêm nhiều việc làm cho người lao động và sinh viên tốt nghiệp ra trường. Phát triển và mở rộng thị trường xuất khẩu lao động, nhất là thị trường có thu nhập cao, an toàn cho người lao động. Phấn đấu đến năm 2020 giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 3%. Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp. Đẩy mạnh thực hiện Đề án “có nhà ở”, huy động nhiều nguồn lực xây dựng nhà ở chung cư để bố trí cho các hộ chính sách, hộ nghèo chưa có chỗ ở ổn định, các hộ tái định cư, các đối tượng hưởng lương từ ngân sách; tiếp tục khuyến khích đầu tư xây dựng ký túc xá cho sinh viên, nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp.
Đẩy mạnh công tác phòng, chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma túy; nâng cao hiệu quả cuộc vận động xây dựng phường, xã lành mạnh, không có tệ nạn xã hội gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; tiếp tục thực hiện mục tiêu “Không có người nghiện ma tuý trong cộng đồng”, gắn với Chỉ thị 37-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về phòng, chống tội phạm và tệ nạn ma túy, các quy định về lập hồ sơ và tổ chức cai nghiện ma túy.
II- Về quốc phòng, an ninh
Tăng cường quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, xây dựng thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ chủ quyền, lợi ích quốc gia. Chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống.
Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về quốc phòng, an ninh; tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận; đầu tư xây dựng các công trình phòng thủ; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Phối hợp với Quân khu V và các lực lượng đứng chân trên địa bàn thực hiện tốt các phương án, nhiệm vụ công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo, chất lượng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; chỉ đạo công tác tuyển quân hằng năm đạt 100% chỉ tiêu, có chất lượng tốt; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt 1,5% so với dân số; chăm lo chu đáo chính sách hậu phương quân đội và chính sách đối với dân quân tự vệ, dự bị động viên.
Tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, gắn với Luật Biên giới quốc gia, Luật Biển Việt Nam. Nâng cao chất lượng xây dựng nền biên phòng toàn dân, xây dựng lực lượng biên phòng thành phố vững mạnh. Triển khai có chất lượng Đề án tuyên truyền phổ biến pháp luật cho cán bộ, nhân dân, nhất là ngư dân lao động trên biển. Tích cực đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia trên Biển Đông và quần đảo Hoàng Sa.
Quán triệt, triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác bảo đảm an ninh quốc gia, các chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, không để xảy ra “điểm nóng”. Tiếp tục củng cố thế trận an ninh nhân dân, huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; tăng cường đấu tranh, trấn áp các loại tội phạm và đẩy lùi tệ nạn xã hội. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự, bảo đảm trật tự an toàn giao thông, kiềm chế và giảm dần tai nạn giao thông trên cả ba tiêu chí.
Xây dựng lực lượng vũ trang thành phố trong sạch, vững mạnh toàn diện, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đảm bảo cả về số lượng, chất lượng và sức chiến đấu cao; chú trọng bồi dưỡng, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên. Thường xuyên tổ chức diễn tập phòng thủ các cấp, chú trọng xây dựng hậu cứ, thực hành tốt các phương án sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. Quan tâm bổ sung, trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật, phương tiện cho lực lượng vũ trang thực hiện nhiệm vụ. Tăng cường công tác phối hợp giữa các lực lượng vũ trang trong công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn. Nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trong tình hình mới; lãnh đạo thực hiện tốt phong trào toàn dân tham gia phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn.
III- Về công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
1- Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có chiều sâu việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị gắn với Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, Chỉ thị 29-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp phải tiên phong, gương mẫu trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tổ chức việc đăng ký chuẩn mực làm theo thiết thực, ngắn gọn dễ nhớ, dễ thực hiện; đưa việc học tập và làm theo gương Bác trở thành việc thường xuyên trong các tổ chức cơ sở đảng và cán bộ, đảng viên; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ định kỳ, chú trọng việc tổ chức sinh hoạt chuyên đề; thường xuyên kiểm tra, giám sát, đánh giá, rút kinh nghiệm, phát huy những cách làm hay, thiết thực, hiệu quả, khắc phục những yếu kém, hình thức. Chú trọng xây dựng điển hình làm theo gương Bác, kịp thời tuyên dương, khen thưởng để động viên phong trào.
Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tổ chức cơ sở đảng và cán bộ, đảng viên nghiêm túc, tự giác có kế hoạch, biện pháp cụ thể để khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm. Nâng cao chất lượng tự phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, ngại va chạm; phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu; thực hiện thường xuyên việc chất vấn trong Đảng và nâng cao chất lượng chất vấn.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, thực hiện đạt kết quả tốt Chỉ thị 29-CT/TU của Ban Thường vụ Thành ủy, nhất là nội dung “5 xây”, “3 chống”, góp phần cải tiến lề lối làm việc, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng nền công vụ, chất lượng phục vụ nhân dân trong tình hình mới.
- Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tạo sự thống nhất về ý chí và hành động trong toàn Đảng bộ. Đẩy mạnh việc học tập nâng cao nhận thức về lý luận chính trị, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Chăm lo xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng, sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân. Chú trọng cổ vũ, nhân rộng gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiêu biểu, các phong trào thi đua yêu nước; tính tiên phong, gương mẫu, của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể. Kiên quyết đấu tranh, phản bác kịp thời, có hiệu quả các luận điểm sai trái, xuyên tạc, âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; bảo vệ đường lối và sự lãnh đạo của Đảng, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng trên địa bàn, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đổi mới và nâng cao tính chiến đấu, sức thuyết phục, hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên. Cải tiến, đổi mới việc tổ chức nghiên cứu, học tập nghị quyết, chỉ thị của Đảng phù hợp với từng đối tượng, chú trọng xây dựng chương trình hành động, kế hoạch phù hợp với thực tiễn, phân công trách nhiệm và lộ trình thực hiện rõ ràng. Nâng cao chất lượng sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, tổng kết thực tiễn. Đảm bảo chất lượng và tính thời sự thông tin, kịp thời cung cấp thông tin chính thống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân để định hướng dư luận. Tăng cường phối hợp với các cơ quan chức năng quản lý văn hóa, văn nghệ, xuất bản, báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là mạng xã hội; nâng cao chất lượng công tác khoa giáo, công tác biên soạn, phát huy truyền thống lịch sử cách mạng, chú trọng giáo dục chủ quyền biển, đảo, nhất là trong trường học và thế hệ trẻ.
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng bộ và hệ thống chính trị. Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ thành phố đến cơ sở sát hợp với đặc điểm đô thị. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ các cơ quan, đơn vị, mối quan hệ trong từng tổ chức và giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị; tiếp tục tinh giản biên chế, kiện toàn tổ chức, bộ máy tinh gọn, đồng bộ, hiệu quả, sát hợp với chức năng, nhiệm vụ và tinh giản biên chế trong hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Chú trọng nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; tiếp tục tăng cường công tác đảng trong trường học, công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước. Nâng cao chất lượng đánh giá tổ chức cơ sở đảng, đổi mới công tác khen thưởng tổ chức đảng, đảng viên(58). Tăng cường công tác phát triển đảng viên, phấn đấu mỗi năm phát triển trên 2.000 đảng viên mới, đảm bảo yêu cầu về chất lượng. Tổ chức đảng và đảng viên thường xuyên giữ mối liên hệ với nhân dân. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy nơi công tác và nơi cư trú trong việc quản lý đảng viên. Thực hiện tốt việc định kỳ tổ chức lấy ý kiến nhận xét của nhân dân nơi cư trú đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, lãnh đạo quản lý.
Phát huy dân chủ, thực hiện công khai, tiếp tục đổi mới tư duy trong công tác cán bộ. Chú trọng tính dài hạn, chiến lược trong công tác cán bộ, khắc phục tình trạng hụt hẫng, bị động, điều chỉnh sự mất cân đối về cán bộ trẻ, cán bộ nữ, đội ngũ cán bộ dự nguồn cho các nhiệm kỳ kế tiếp. Xây dựng tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý theo tiêu chuẩn chức danh, thực hiện nghiêm việc lấy phiếu tín nhiệm, tạo cơ sở khách quan trong đánh giá cán bộ. Hoàn chỉnh các quy định về cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm chức danh cán bộ quản lý, tiêu chuẩn tuyển dụng công chức, cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng, nhất là cán bộ trong diện quy hoạch. Chú trọng đào tạo cán bộ nguồn, cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ, cán bộ phường, xã. Tiếp tục làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ Đảng, phục vụ tốt yêu cầu công tác cán bộ và phát triển đảng viên mới, chống tự diễn biến, tiêu cực trong nội bộ Đảng. Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên đi nước ngoài.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các đề án phát triển nguồn nhân lực đang triển khai, nhất là trong bố trí, sử dụng, bồi dưỡng. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu thực tiễn; gắn kết hiệu quả giữa thu hút, đào tạo và sử dụng dựa trên định hướng phát triển và nhu cầu nhân lực của thành phố. Khuyến khích, tạo điều kiện đào tạo nguồn nhân lực khu vực ngoài nhà nước; xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành giỏi, đội ngũ doanh nhân năng động. Duy trì tổ chức các lớp đào tạo lý luận chính trị, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức quốc phòng, an ninh.
- Đổi mới, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ. Chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống, đặc biệt là những cơ quan chủ trì việc triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách. Nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc, thực hiện dân chủ trong Đảng, tinh thần tự phê bình và phê bình; đấu tranh phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, giám sát công tác cán bộ; thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm. Kiện toàn ủy ban kiểm tra, tổ chức bộ máy và cán bộ cơ quan uỷ ban kiểm tra các cấp tương ứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác dân vận. Tập trung thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về công tác dân vận, Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, tạo sự đồng thuận xã hội; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động, chương trình hành động, phong trào thi đua yêu nước, nhân rộng điển hình “Dân vận khéo” trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan Nhà nước. Kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới chính sách, chế độ đối với cán bộ dân vận, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung, phương thức hoạt động trong thời kỳ mới. Tăng cường công tác phối hợp giữa các tổ chức trong việc thực hiện công tác dân vận.
- Thực hiện tốt công tác nội chính. Tăng cường theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, giám sát đối với các địa phương, đơn vị về công tác nội chính. Xây dựng những cơ chế đặc thù để phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt chức năng tham mưu, đề xuất hướng xử lý các vụ việc tồn đọng về tham nhũng, những vụ án phức tạp, kéo dài, còn có ý kiến khác nhau và một số vấn đề có liên quan trong hoạt động tư pháp.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, quyết liệt, sát với tình hình thực tiễn. Tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; có cơ chế cụ thể, rõ ràng để đồng bộ hóa hoạt động của cấp ủy và chính quyền. Đổi mới phương pháp, phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan Đảng, hướng vào giải quyết những vấn đề trọng tâm, bức xúc, có liên quan đến đời sống nhân dân. Tăng cường đối thoại với nhân dân, chỉ đạo tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn. Sơ kết, tổng kết kịp thời những chủ trương công tác lớn; thường xuyên điều chỉnh, bổ sung các giải pháp nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra. Ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin, thực hiện hiệu quả công tác cải cách hành chính trong Đảng. Đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, thủ trưởng đơn vị.
2- Xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực tổ chức thực hiện và hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước; đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, thanh tra, phòng, chống tham nhũng
- Lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện Luật tổ chức chính quyền địa phương. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp, nhất là chất lượng các kỳ họp và hoạt động giám sát. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành và năng lực ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân các cấp và năng lực tổ chức thực hiện. Xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, hiện đại và dân chủ, hình thành bộ máy quản lý nhà nước theo hướng chính quyền đô thị, tập trung và chuyên môn hóa một số lĩnh vực về hoạt động quản lý đô thị. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền một cách hợp lý, khắc phục sự chồng chéo, có cơ chế để các địa phương, đơn vị phát huy quyền chủ động, sáng tạo trong việc quản lý, tham mưu, đề xuất gắn với đề cao trách nhiệm. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020; hình thành đồng bộ chính quyền đô thị, điện tử; nâng cao chất lượng các loại hình dịch vụ công, đáp ứng yêu cầu xây dựng đô thị văn minh, theo hướng hiện đại.
- Tiếp tục thực hiện Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX). Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý. Xây dựng đội ngũ cán bộ, tăng cường cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, chất lượng tranh tụng của kiểm sát viên và luật sư tại phiên tòa; giảm và hạn chế thấp nhất việc bỏ lọt tội phạm, án hủy, cải sửa, không để oan, sai. Tăng cường năng lực giám sát của các cơ quan dân cử, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng đối với hoạt động tư pháp.
- Đẩy mạnh thanh tra trách nhiệm của thủ trưởng các cấp, các ngành trong công tác quản lý nhà nước, tập trung vào các lĩnh vực cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, quản lý đầu tư xây dựng, tài chính ngân sách, đầu tư mua sắm tài sản; việc thực hiện pháp luật về tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân. Chú trọng tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo có hiệu lực pháp luật.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, kế hoạch của Thành ủy thực hiện các nghị quyết, kết luận Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm. Thực hiện tốt Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020; kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng; phát huy vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, trách nhiệm người đứng đầu trong việc chỉ đạo, tăng cường thanh tra, kiểm tra, điều tra để phòng ngừa, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng.
3- Phát huy dân chủ, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị- xã hội
- Tiếp tục nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, củng cố sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân trong tình hình mới; đồng thời đấu tranh với những âm mưu nhằm chia rẽ khối đoàn kết toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng trong việc lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở một cách thực chất, công khai, minh bạch. Chăm lo xây dựng củng cố tổ chức Mặt trận, đoàn thể từ thành phố đến cơ sở vững mạnh; chú trọng quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ, tiêu chuẩn hóa cán bộ chuyên trách, bố trí người có năng lực, uy tín làm công tác dân vận, mặt trận, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đổi mới, định hướng nội dung hoạt động và bố trí kinh phí, phương tiện để Mặt trận, đoàn thể triển khai tốt các hoạt động và thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình, nhất là chức năng giám sát, phản biện xã hội trong tình hình mới. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác vận động quần chúng.
- Cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải gương mẫu trong công tác vận động quần chúng, thực hiện đúng phong cách “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Đảng viên phải gương mẫu tham gia sinh hoạt và làm nòng cốt hoạt động ở một đoàn thể nhất định. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải nghiêm túc thực hiện Quy chế về định kỳ đối thoại với nhân dân, phải thường xuyên tiếp xúc và lắng nghe ý kiến của dân; thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; đảm bảo cho các tầng lớp nhân dân thụ hưởng đầy đủ thành quả của sự nghiệp đổi mới, thành quả của công cuộc xây dựng và phát triển thành phố.
- Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động nhằm đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, nhất là nhân sỹ, trí thức, tín đồ và chức sắc các tôn giáo, đồng bào các dân tộc và người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài. Chú trọng triển khai thực hiện có hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền theo Quyết định 217-QĐ/TW và Quyết định 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị.
Tăng cường xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh, chăm lo giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, trình độ học vấn, tay nghề, giải quyết việc làm, thu nhập, bảo hiểm, nhà ở cho con em công nhân. Nâng cao vai trò, vị trí chính trị của nông dân, thực hiện giảm nghèo và nâng cao đời sống; tạo điều kiện để nông dân đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong những thành tựu phát triển. Tiếp tục thực hiện chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ phát huy sáng tạo phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển thành phố. Chăm lo xây dựng thế hệ trẻ giàu lòng yêu nước, có đạo đức, lối sống lành mạnh, phát triển về thể chất, tri thức, kỹ năng, tác phong công nghiệp và khả năng lập nghiệp, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế. Tăng cường công tác tập hợp thanh-thiếu nhi vào tổ chức đoàn, hội, đội. Quan tâm nâng cao trình độ và đời sống vật chất, văn hóa của phụ nữ, thực hiện tốt mục tiêu bình đẳng giới; phòng, chống bạo lực gia đình; chăm sóc sức khỏe sinh sản; chăm lo công tác cán bộ nữ. Thực hiện tốt chính sách đối với cựu chiến binh, lực lượng hưu trí, gia đình chính sách và người cao tuổi; phát huy vai trò của cựu chiến binh, cán bộ hưu trí trong công tác giáo dục truyền thống, nêu gương sáng cho lớp trẻ noi theo. Phát triển cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân thành phố; động viên, khơi dậy tiềm năng, ý thức trách nhiệm của doanh nhân trong phát triển kinh tế-xã hội, vận động doanh nhân tích cực đầu tư sản xuất, kinh doanh để làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình và góp phần làm giàu cho xã hội. Thực hiện tốt chính sách và chăm lo cải thiện đời sống đối với đồng bào các dân tộc. Động viên, khuyến khích, giúp đỡ và tạo điều kiện cho đồng bào các tôn giáo xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo”, phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp, đóng góp vào sự phát triển của thành phố. Đẩy mạnh công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài và bà con quê hương Đà Nẵng trên khắp mọi miền của đất nước hướng về quê hương, tích cực đầu tư, đóng góp để xây dựng quê hương giàu mạnh, văn minh.
***
Với trách nhiệm chính trị lớn lao của mình, Đại hội sẽ quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển thành phố giai đoạn 2015 - 2020, Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố tin tưởng với truyền thống cách mạng, đoàn kết, sáng tạo, phát huy phẩm chất anh hùng, toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân thành phố tiếp tục phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XXI Đảng bộ thành phố, xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng theo hướng giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại, có bản sắc riêng, xứng đáng là trung tâm kinh tế - xã hội của miền Trung và đô thị lớn của cả nước.
(1) Thành phố phát động “Năm Doanh nghiệp 2014”, ban hành Đề án phát triển doanh nghiệp và Đề án tái cơ cấu kinh tế đến năm 2020, đồng thời đẩy mạnh cải cách hành chính, gặp mặt, đối thoại với các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; hỗ trợ tiếp cận vốn vay, kết nối cung - cầu, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất tại các khu công nghiệp và các dự án ven biển…
(2) Tỷ giá bình quân năm 2015 ước 21.500 đồng/USD.
(3) Thành phố hiện có 5 trung tâm thương mại, 41 siêu thị chuyên doanh, 69 chợ (2 chợ quy mô lớn trên 1.000 hộ kinh doanh, 3 chợ trên 500 hộ)...
(4) Với quần thể du lịch Bà Nà - Suối Mơ, bán đảo Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Công viên Châu Á, Helio Center và các sự kiện pháo hoa, marathon quốc tế, các loại hình du lịch sông - biển...
(5) Các dự án ven biển: Pullman, Intercontinental, Silver Shores, Fusion Maia, Hyatt Regency, Vinpearl Luxury, Vinacapital...; các dự án tại trung tâm thành phố: Novotel, Mercure, Brillant... Đến tháng 6-2015, toàn thành phố có 478 khách sạn với 17.671 phòng, trong đó có 88 khách sạn 3 - 5 sao, với 9.066 phòng.
(6) Giảm dần tỷ trọng các ngành tiêu hao nhiều năng lượng, ô nhiễm môi trường, giá trị gia tăng thấp, như: chế biến thực phẩm, dệt - may - giày, chế biến gỗ, lâm sản… Tăng tỷ trọng các ngành sử dụng công nghệ cao, hiện đại, giá trị gia tăng cao, như: sản xuất linh kiện, thiết bị điện, điện tử, công nghệ thông tin, cơ khí,…
(7) Nhà máy sản xuất lốp xe tải Radial (Công ty CP Cao su), Dự án mở rộng sản xuất bia (Công ty VBL Đà Nẵng), Nhà máy Sữa Đà Nẵng (Công ty CP Sữa Việt Nam), Công ty TNHH ô-tô TCIE Việt Nam,…
(8) Ngoài Khu công viên phần mềm và Khu Công viên phần mềm FPT đã đưa vào sử dụng khá hiệu quả, các khu công nghệ thông tin còn lại đang được đầu tư xây dựng.
(9) Dự án Keiki Precision - Technology (40 triệu USD), sản xuất van điện từ và bơm cánh quạt áp lực cao; Dự án Niwa Foundry Việt Nam (30 triệu USD), sản xuất sản phẩm và vật liệu đúc dùng trong các bộ phận thủy lực; Dự án Cơ sở nghiên cứu và phát triển vật liệu mới trong xây dựng (10 tỷ đồng).
(10) Hỗ trợ xăng dầu tàu khai thác xa bờ, mua bảo hiểm cho thuyền viên tàu từ 50 CV trở lên, lắp đặt hệ thống thông tin liên lạc tích hợp định vị vệ tinh và trạm bờ, hỗ trợ đóng mới tàu cá công suất lớn, thành lập các tổ dịch vụ hậu cần và nghiệp đoàn nghề cá.
(11) Đến cuối năm 2014, có gần 14.000 doanh nghiệp dân doanh đang hoạt động, tổng vốn đăng ký đạt 73.000 tỷ đồng; 313 dự án FDI, tổng vốn đăng ký 3,379 tỷ USD, vốn thực hiện 1,8 tỷ USD, đạt 53,3% vốn đăng ký. Thu hút đầu tư hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đạt trên 700 triệu USD.
(12) Trong đó, thu nội địa ước đạt 44.859 tỷ đồng, tăng 0,2%/năm; thu thuế xuất nhập khẩu ước đạt 12.071 tỷ đồng, tăng 3,5%/năm; thu tiền sử dụng đất ước đạt 12.103,5 tỷ đồng, giảm 21,2%/năm.
(13) Các năm 2010-2014, đã thẩm tra, phê duyệt 1.597 đồ án quy hoạch, tổng diện tích 18.454 ha; thực hiện xét chọn địa điểm đầu tư cho 219 địa điểm, với diện tích 1.841 ha. Rà soát 152 dự án quy hoạch được chấp nhận đầu tư nhưng chưa hoặc chậm triển khai, hủy 39 dự án không khả thi…
(14) Đến nay, diện tích đô thị của Đà Nẵng đạt gần 9.000 ha.
(15) Diện tích không gian xanh đô thị được chú trọng đầu tư, đạt 6,1 m2/người. 5/6 khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung, tỷ lệ đấu nối nước thải đạt 98%; 100% chất thải nguy hại được thu gom và xử lý bằng biện pháp đốt tại bãi rác Khánh Sơn; tỷ lệ thu gom rác thải sinh hoạt đạt 93%.
(16) Năm 2011, được trao giải thưởng “Thành phố bền vững về môi trường của các nước ASEAN”; năm 2012 được bình chọn là 1 trong 20 thành phố trên thế giới có hàm lượng carbon thấp nhất; năm 2013 được xét chọn 1 trong 33 thành phố đầu tiên đăng ký tham gia “Chương trình 100 thành phố có khả năng chống chịu”.
(17) Thành phố được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở đúng độ tuổi và đạt chuẩn phổ cập bậc trung học tại 100% xã, phường. Năm học 2014-2015, trên địa bàn có 384 đơn vị, trường học: 167 trường mầm non (kể cả nhà trẻ và mẫu giáo), 100 trường tiểu học, 56 trường trung học sơ sở, 23 trường trung học phổ thông, 8 trung tâm giáo dục thường xuyên, giáo dục thường xuyên - kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, dạy nghề, 30 trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học.
(18) Đến nay có 61 cơ sở dạy nghề (24 công lập và 37 ngoài công lập), hằng năm tuyển sinh hơn 130.000 học sinh, sinh viên.
(19) Đại học Đà Nẵng mở thêm 29 chuyên ngành đào tạo mới, nâng tổng số lên 190 chuyên ngành đào tạo.
(20) Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đến tháng 4-2015, đã cử đi đào tạo 623 trường hợp (20 tiến sĩ, 87 thạc sĩ, 397 bậc đại học, 119 học viên tham gia đào tạo bác sĩ, bác sĩ nội trú); có 343/393 lượt học viên tốt nghiệp được bố trí công tác. Ngoài ra, trong nhiệm kỳ đã thu hút 508 cán bộ có trình độ đại học khá, giỏi trở lên (8 tiến sĩ, 102 thạc sĩ, 398 tốt nghiệp đại học); hằng năm có 4.000 - 4.500 lượt cán bộ, công chức, viên chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, cập nhật kiến thức.
(21) Giai đoạn 2011 - 2015, có 92 đề tài, dự án được triển khai, 51 đề tài, dự án đã được nghiệm thu và ứng dụng trong thực tiễn sản xuất và đời sống.
(22) Tỷ lệ mua mới máy móc, thiết bị của doanh nghiệp đạt 76%, phần lớn được sản xuất sau năm 2000.
(23) Thành phố có 28 bệnh viện (5 bệnh viện Trung ương, 8 bệnh viện cấp thành phố, 7 bệnh viện quận, huyện, 8 bệnh viện tư nhân), với hơn 6.000 giường bệnh, khoảng 6.000 cán bộ y tế, 1.250 bác sĩ. 100% phường, xã có trạm y tế, nữ hộ sinh, y tá, điều dưỡng, bác sĩ thường xuyên và tăng cường. Đến cuối năm 2014, đạt 13,9 bác sĩ/10.000 dân và 61,04 giường bệnh/10.000 dân, cao hơn mức bình quân cả nước 7,8 bác sĩ/10.000 dân, 23 giường bệnh/10.000 dân.
(24) Giảm tỷ suất sinh ước đạt 0,18%o/năm, tỷ lệ sinh con thứ 3+ ước giảm 0,5%; tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi giảm còn 5,2%; 100% trẻ sơ sinh được tiêm phòng vắc-xin tại các cơ sở y tế phường, xã; 100% trẻ em dưới 6 tuổi, trẻ em diện hộ nghèo được cấp thẻ khám, chữa bệnh miễn phí, 100% trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS được giúp đỡ; 100% trẻ em mồ côi không nơi nương tựa và trẻ em khuyết tật được chăm sóc dưới nhiều hình thức.
(25) Thư viện Khoa học tổng hợp, Bảo tàng Mỹ thuật, Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh, Bảo tàng Điêu khắc Chăm... Rà soát, đầu tư nâng cấp khu vui chơi giải trí phường, xã, Công viên 29/3; xã hội hóa đầu tư Công viên Châu Á.
(26) Cuộc thi trình diễn pháo hoa, dù bay, robocon, marathon quốc tế, cuộc thi hoa hậu Việt Nam.
(27) Cung Thể thao Tiên Sơn, bể bơi thành tích cao, Trung tâm đào tạo vận động viên...
(28) Chuẩn nghèo giai đoạn 2009 - 2015, thành phố 500.000 đồng/người/tháng, nông thôn 400.000 đồng/người/tháng. Chuẩn nghèo giai đoạn 2013 - 2017, thành phố 800.000 đồng/người/tháng, nông thôn 600.000 đồng/người/tháng.
(29) Đã đưa vào sử dụng 176 khối nhà chung cư với gần 9.000 căn hộ; đang triển khai xây dựng 128 khối chung cư với gần 17.500 căn hộ; hoàn thành 2 khu ký túc xá sinh viên tập trung phía Tây và phía Đông thành phố, đáp ứng nhu cầu chỗ ở cho 5.500 sinh viên.
(30) Giai đoạn 2010 - 2014, đã điều tra làm rõ 2.012 vụ vi phạm trật tự xã hội, đạt tỷ lệ 80,93%, bắt xử lý 3.304 đối tượng; phát hiện, xử lý 414 vụ/581 đối tượng phạm tội về ma túy; khởi tố 120 vụ/154 bị can vi phạm pháp luật về quản lý kinh tế và chức vụ.
(31) Năm 2010: 730 vụ, 149 người chết, 592 người bị thương; năm 2011: 459 vụ, 131 người chết, 472 người bị thương; năm 2012: 263 vụ, 113 người chết, 247 người bị thương; năm 2013: 237 vụ, 130 người chết, 198 người bị thương; năm 2014: 161 vụ, 86 người chết, 149 người bị thương.
(32) Trong 4 năm 2011-2015, có 10 tập thể, cá nhân điển hình tiêu biểu được Trung ương khen thưởng; 248 tập thể, cá nhân được thành phố khen thưởng; 2.912 tập thể, cá nhân được các cấp, các ngành khen thưởng.
(33) Giai đoạn 2010-2015, hệ thống trung tâm bồi dưỡng chính trị tổ chức 951 lớp bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ cho trên 142.590 lượt cán bộ. In, phát hành 60 số bản tin nội bộ với 252.000 bản; 120 số bản tin phục vụ lãnh đạo với 44.400 bản.
(34) Đã biên soạn, phát hành 6 công trình lịch sử, truyền thống cách mạng; 2 đề tài khoa học khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
(35) Thành lập Đảng bộ cấp trên cơ sở Cảnh sát Phòng cháy và chữa cháy, đảng bộ cơ sở giao quyền cấp trên cơ sở Tổng Công ty Điện lực miền Trung, nâng cấp Đảng bộ Các khu công nghiệp thành đảng bộ cấp trên cơ sở trực thuộc Thành ủy.
(36) Hằng năm có trên 83% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh; trong đó có trên 19% trong sạch vững mạnh tiêu biểu; trên 99% đảng viên hoàn thành nhiệm vụ, trong đó trên 12% hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
(37) Trung bình mỗi năm kết nạp trên 2.000 đảng viên.
(38) Có 45 người được bổ nhiệm vào chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan, đơn vị qua thi tuyển.
(39) Tổng kết 30 năm đổi mới theo chỉ đạo của Trung ương, 10 năm thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW của Bộ Chính trị và tham mưu ban hành Kết luận 75-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW; tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận 24-KL/TU, Kết luận 25-KL/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về xây dựng, phát triển quận Hải Châu, quận Liên Chiểu và đề ra các chủ trương trong những năm đến...
(40) “5 xây”: trách nhiệm, chuyên nghiệp, trung thực, kỷ cương, gương mẫu; “3 chống”: quan liêu, tiêu cực, bệnh hình thức.
(41) Sớm triển khai hoàn thiện cơ chế “một cửa liên thông”, “một cửa liên kết”, “một cửa tập trung”, “một cửa điện tử”; từng bước xây dựng chính quyền điện tử; triển khai hiệu quả cuộc vận động 3 hơn “Nhanh hơn, hợp lý hơn, thân thiện hơn” và một số chính sách công tác cán bộ...
(42) Giai đoạn 2011 - 2014, các cơ quan quản lý hành chính các cấp, các cơ quan thanh tra đã xử lý 2.148 đơn khiếu nại, tố cáo; đã giải quyết 793/820 vụ khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 90%.
(43) Giai đoạn 2011 - 2014, đã hoàn thành 7.984 cuộc thanh tra, kiểm tra, qua đó phát hiện sai phạm và kiến nghị thu hồi ngân sách Nhà nước 73,5 tỷ đồng, ban hành 16.739 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền phạt 51,5 tỷ đồng, chuyển cơ quan điều tra 1 vụ có dấu hiệu tham nhũng.
(44) Năm 2014, GRDP Đà Nẵng chiếm 1,34% cả nước; dự kiến năm 2015 chiếm 1,36%.
(45) (1) Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn (GRDP, giá so sánh 2010) ước tăng 9,7%/năm (NQ: 13,5-14,5%/năm); (2) Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ ước tăng 12,1%/năm (NQ: 17-18%/năm); (3) Giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng ước tăng 7,8%/năm (NQ: 12-13%/năm), trong đó: công nghiệp tăng 10%/năm (NQ: 11,5-12,5%/năm); (4) Tổng vốn đầu tư phát triển ước đạt 159,17 ngàn tỷ đồng, tăng 9,4%/năm (NQ: tăng 15-16%/năm).
(46) Trong 48 công trình đề ra có 15 công trình chưa triển khai (thành phố 6, Trung ương: 9): Nghiên cứu, thiết kế, xây dựng hệ thống tàu điện ngầm, Rạp xiếc thành phố, Nhà hát lớn thành phố, Trung tâm văn hóa thành phố, Nhà máy nước Hòa Liên, Xây dựng Cảng Liên Chiểu (gđ1), Xây dựng Cảng Tiên Sa (gđ2), Làng Đại học Đà Nẵng, Di dời ga đường sắt ra khỏi trung tâm thành phố, Hành lang kinh tế Đông Tây 2 (EWEC2), Nâng cấp QL 14B đoạn từ Túy Loan đến ranh giới Đà Nẵng - Quảng Nam, các nút giao thông từ Đà Nẵng đi các tỉnh, Hầm đường sắt Hải Vân, bến cảng khách quốc tế đường biển, Viện nghiên cứu Việt - Anh.
(47) Rà soát 152 đồ án quy hoạch kéo dài nhiều năm không triển khai hoặc tính khả thi thấp, qua đó đã hủy bỏ, thu hồi 32 đồ án, điều chỉnh 50 đồ án, rà soát tiến độ 70 đồ án.
(48) Khu phức hợp thương mại - dịch vụ cao tầng tại Sân vận động Chi Lăng, Khu phức hợp du lịch quốc tế Làng Vân, Tổ hợp Viễn Đông Meridian Tower, dự án DaNang Center, Khu phức hợp Golden Square...
(49) Ô nhiễm môi trường tại sông Phú Lộc, Âu thuyền Thọ Quang, bãi rác Khánh Sơn,….
(50) Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng kinh tế ASEAN...
(51) Khu vực thành thị 1.300.000 đồng/người/tháng, khu vực nông thôn 1.100.000 đồng/người/tháng.
(52) Siêu thị khu vực Liên Chiểu, Trung tâm thương mại thế giới Đà Nẵng - World Trade Centre, Siêu thị Bắc Mỹ An, Trung tâm thương mại Ngũ Hành Sơn, Trung tâm thương mại Hòa Cầm,…
(53) Cảng du lịch Thuận Phước, các bến du thuyền, khai thông sông Cổ Cò nối Đà Nẵng và Hội An, các khu làng nghề truyền thống; kêu gọi đầu tư dự án Công viên văn hóa Ngũ Hành Sơn, các khu mua sắm hàng lưu niệm, ẩm thực lớn; đôn đốc triển khai đúng kế hoạch các dự án du lịch: khu nghỉ mát, khách sạn, khu vui chơi, giải trí, sân golf…
(54) Sự kiện Đại hội thể thao biển châu Á, Tuần lễ cấp cao APEC 2017…
(55) Nước thải được thu gom riêng đưa về trạm xử lý, không thải trực tiếp ra môi trường. Đến năm 2020, 100% nước thải công nghiệp và sinh hoạt được xử lý đạt tiêu chuẩn; 100% dân số toàn thành phố được cung cấp nước sạch; phát triển diện tích không gian xanh đô thị, hợp lý về tỷ lệ và chủng loại cây, 100% các tuyến đường, các công viên và các khu công cộng phải có cây xanh có bóng mát và cây xanh trang trí, diện tích cây xanh đô thị đạt 10-12m2/người.
(56) 100% các trung tâm văn hóa thể thao quận, huyện được đầu tư và hoàn thiện; 80% phường, xã có thiết chế trung tâm văn hóa, thể thao, trong đó được đầu tư trang thiết bị và dành tối thiểu 30% thời gian sử dụng trong năm để tổ chức các hoạt động vui chơi giải trí cho trẻ em và 100% nhà văn hóa - khu thể thao thôn được nâng cấp, hoàn thiện.
(57) Phấn đấu đến năm 2020, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, thể trạng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi xuống còn 15,5%; giảm tỷ suất tử vong bà mẹ xuống dưới 14%oo; giảm tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi xuống 5%o.
(58) Duy trì hằng năm số tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh theo quy định; phấn đấu không có tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Thực hiện tốt công tác đánh giá chất lượng đảng viên, phấn đấu hằng năm có từ 90% đảng viên trở lên hoàn thành nhiệm vụ được giao.