.

Không tham của dân

.

Nguyễn Dục làm quan mà không tham của dân, không dám nhận của do vua ban, chỉ nhận những gì mình thực sự xứng đáng được nhận.

Nhà giáo Nguyễn Dục được thờ tại nhà thờ tộc Nguyễn, làng Chiên Đàn. Ảnh: P.V.B
Nhà giáo Nguyễn Dục được thờ tại nhà thờ tộc Nguyễn, làng Chiên Đàn. Ảnh: P.V.B

Nguyễn Dục sinh năm 1807 tại làng Chiên Đàn, tổng Chiên Đàn Trung, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình (nay là thôn An Thọ, xã Tam An, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam). Cha ông là một nhà giáo giỏi và đức độ, từng được vua Tự Đức ban tặng tước vị “Phụng nghi đại phu Hàn lâm viện thị độc”. Mẹ ông là một người phụ nữ đức hạnh, cũng được ban tặng tước vị “Chánh Ngũ phẩm Nghi nhân”.

Dưới sự dạy bảo của cha nghiêm mẹ hiền, ông để tâm đèn sách, năm 31 tuổi đỗ Phó bảng, được bổ dụng làm quan, nhưng xin được ở nhà để lo phụng dưỡng mẹ già cho đến khi mẹ mất. 5 năm sau, khi mẹ mất, ông mới bắt đầu ra làm quan, với những chức vụ như Đồng tri phủ, Quốc sử quán Biên tu, Nội các Hành tẩu…

Chuyện của ông được chép ở Quyển 33 sách Đại Nam chính biên liệt truyện Nhị tập, bộ sách do các sử quan Triều Nguyễn biên soạn hoàn thành vào tháng 11-1889 chép các nhân vật thuộc các đời từ vua Minh Mệnh trở về sau.

Theo đó, năm Thiệu Trị thứ bảy (1847), Nguyễn Dục bị bệnh, xin cáo quan về nhà nghỉ đến hơn mười năm, lấy sách vở làm vui và mở trường dạy học. Học trò của ông rất nhiều người đỗ đạt.

Năm Tự Đức thứ mười bốn (1861), ông ra nhậm chức Giáo thụ ở Điện Bàn, sau chuyển làm Đốc học tỉnh Quảng Ngãi. Ba năm sau, ông được chuyển làm Viên ngoại, lãnh chức Lang trung Bộ Lại. Bấy giờ, học trò trường Quốc tử giám rất ít. Vua muốn chọn người làm Tế tửu (như hiệu trưởng đại học ngày nay), bèn hỏi quan Tham tri Bộ Lại Phạm Phú Thứ, đồng hương Quảng Nam với ông: Ở Quảng Nam có ai phẩm hạnh đoan chính không? Họ Phạm thưa rằng: Có Nguyễn Dục.

Thế là vua liền đặc cách thăng Nguyễn Dục làm Tế tửu Quốc tử giám. Song, chẳng bao lâu, ông lại xin từ chức vì cớ có bệnh. Vua xuống dụ an ủi để lưu lại và cử ông làm Phó Chủ khảo trường thi Hương ở Bình Định. Năm Tự Đức thứ hai mươi mốt (1868), ông được chuyển làm Thị độc Học sĩ và Đốc học Quảng Nam. Bốn năm sau được thăng làm Thị lang Bộ Lễ, sung chức Giáo đạo ở Dục Đức đường.

Dục Đức đường là nơi ở của Hoàng tử Ưng Chân, sau này là vua Dục Đức. Đến dạy tại đây, Nguyễn Dục ăn mặc rất chỉnh tề nên Hoàng tử vẫn kính sợ. Tháng 2 năm đó có lễ tế Nam Giao, vua chuẩn y cho Hoàng tử tế thay mình. Khi mới tới đàn Nam Giao, quan Hữu quân là Lê Sĩ tặng Hoàng tử cái quạt lông, Nguyễn Dục trách là không đúng lễ. Biết chuyện, vua ngợi khen, thưởng sa và lụa cho ông.

Năm Tự Đức thứ hai mươi chín (1876), ông ngấp nghé tuổi bảy mươi, lại bị bệnh nên xin về nghỉ. Vua chỉ cho nghỉ ba tháng, tặng 50 lạng bạc và sắc cho địa phương phải luôn tới thăm hỏi đồng thời lệnh cho ông rằng chừng nào mãn hạn phải phúc tâu lên vua. Năm sau, do bệnh tình không thuyên giảm, ông dâng sớ xin nghỉ hẳn tại làng. Vua ban dụ, rằng ông là người đức hạnh thuần khiết và lão luyện, xử việc thận trọng, lại xem xét mọi lẽ nghiêm chỉnh nên Hoàng tử biết kính sợ. Vua thăng ông làm Thự Lễ bộ Hữu tham tri, cho được nhận một nửa bổng lộc (của chức mới này) mà về làng nghỉ. “Hễ thấy bệnh thuyên giảm thì mau vào cung nhậm chức, để đáp ơn tri ngộ trước sau, lại cũng để thỏa ý tôn trọng người làm thầy và sự chú tâm đến người ngay của trẫm”.

Ông dâng sớ tâu rằng: “Ghi nhận đức độ để định ngôi thứ cao thấp, xét công lao mà ban cho bổng lộc hậu… việc này triều đình đã có quy định phép tắc rõ ràng. Nhưng, bề tôi phải có đức lớn, công to như quan Đông các Đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn (một đại thần Nhà Nguyễn - NV) mới xứng đáng được đặc biệt gia ơn, chớ kẻ tài hèn đức mọn như hạ thần, chẳng hề có công trạng gì, vì bị bệnh mà xin về nghỉ, thì dám đâu lại nhận chức đến hàng phó khanh và một nửa bổng lộc như thế”.

Vua tỏ ý không bằng lòng, bảo rằng: Như thế không phải là lạm đâu.

Không bao lâu sau ông mất ở quê nhà. Tỉnh thần tâu lên, vua sai chiếu theo lệ mà cấp tiền tuất.

Ông là người ít nói, trung hậu và giản dị, văn chương thuần nhã. Trong huyện, ông là người đứng đầu của các khoa thi Hội. Ông làm quan thanh liêm, thân sĩ vẫn suy tôn ông là người có học hạnh. Ông có người con đỗ Tiến sĩ, giữ chức Biên tu, sung chức Hành tẩu ở Cơ Mật Viện.

Tác giả Nguyễn Khắc Thuần trong Việt sử giai thoại (tập 8), NXB Giáo dục, 1998, có lời bàn về ông: “Làm quan mà không tham của dân đã là giỏi, không dám nhận của do vua ban lại càng giỏi hơn. Chỉ nhận những gì mình thực sự xứng đáng được nhận. Nguyễn Dục đã xử thế như vậy. Việc ngỡ như thường nhưng người thường không dễ làm được đâu. Kính thay Nguyễn Dục, người làm sáng một đoạn sử mờ!”.

VIÊN PHÚC QUÂN

;
.
.
.
.
.