.

Bị cắt lưỡi vì mắng quân thù

.

Đến bây giờ, dòng họ Nguyễn Hữu ở thôn Ái Mỹ, xã Đại An, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam vẫn còn lưu giữ một số sắc phong của vua Tự Đức đối với người con ưu tú của tộc mình: cử nhân Nguyễn Hữu Quân (tức Duân). Đây là chứng cứ quan trọng để UBND tỉnh Quảng Nam xếp hạng ngôi mộ của ông là di tích lịch sử cấp tỉnh.

Bia tóm tắt công trạng (ảnh trái) và mộ Cử nhân Nguyễn Hữu Quân. Ảnh: T.M
Bia tóm tắt công trạng (ảnh trái) và mộ Cử nhân Nguyễn Hữu Quân. Ảnh: T.M

Nguyễn Hữu Quân, tự là Trúc Hiện, sinh năm Bính Thân (1836) tại thôn Trúc An, thường gọi Phước Yên, tổng Phú Mỹ, huyện Duy Xuyên, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; nay là thôn Phước Yên, xã Đại An, huyện Đại Lộc. Thân sinh của ông là Nguyễn Hữu Phước, một nhà nho nghèo có lều chõng đi thi nhưng công không thành, danh không toại, bèn ở nhà dạy chữ cho học trò và con. Có ít vốn liếng chữ nghĩa từ kiến thức của cha, Nguyễn Hữu Quân đỗ cử nhân khoa Đinh Mão tại trường Thừa Thiên năm Tự Đức thứ hai mươi (1867).

Sau khi đỗ đạt, Nguyễn Hữu Quân được Bộ Lại đề tấu và ngày 4-6-1868, vua Tự Đức ban hành sắc dụ phê chuẩn ông vào ngạch Huấn đạo rồi bổ đi làm quan Giáo thụ phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Đang làm quan thì được tin thân phụ qua đời, ông xin phép triều đình về quê nhà chịu tang cho cha. Không lâu sau, khi quay lại phủ Quảng Trạch, ông được đổi làm Giáo thụ phủ Nam Sách, tỉnh Hải Dương, giữ chức Nhiếp biện phủ vụ phủ Nam Sách (tức quyền tri phủ).

Theo sách Đại Nam liệt truyện (NXB Thuận Hóa, 1997), khi Nguyễn Hữu Quân giữ chức quyền tri phủ Nam Sách cũng là lúc bọn giặc Tàu Ô phương Bắc luôn rình rập, quấy phá nước non, bờ cõi nước ta. Đêm 26 tháng Giêng năm 1872, hơn 90 chiến thuyền và hơn 1.300 quân Tàu Ô bất ngờ ập đến đánh chiếm phủ thành Nam Sách. Dù biết quân giặc đông và mạnh gấp nhiều lần, nhưng Nguyễn Hữu Quân đã cùng với Phó Lãnh binh Hoàng Văn Chữ chỉ huy binh lính đánh trả quyết liệt. Cuối cùng Nguyễn Hữu Quân bị giặc bắt sống, thành Nam Sách thất thủ.

Lúc bị giặc bắt, Nguyễn Hữu Quân tỏ rõ khí phách của vị quan yêu nước triều Nguyễn chiến đấu bảo vệ giang sơn, đất nước. Ông mắng nhiếc, chửi rủa xối xả bọn giặc xâm lăng. Ông đã bị chúng hành quyết tàn bạo.

Ở quê nhà, hay tin chồng hy sinh, bà Phan Thị Tú, người làng Phiếm Ái, xã Đại Nghĩa, huyện Đại Lộc đau đớn tột cùng. Tuy là liễu yếu, thân gái đơn côi, phương tiện đi lại vô cùng khó khăn nhưng bà vẫn quyết một mình khăn gói để ngược Bắc tìm thi hài của chồng. Đầu tháng 4 năm ấy, bà tìm tới phủ Nam Sách, được các quan địa phương tận tình giúp đỡ, nhất là cai tổng thuộc huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách là Đặng Văn Lương.

Trong tờ trình vị cai tổng này gửi cho bà Phan Thị Tú ghi ngày 9 tháng 4 năm Tự Đức thứ hai mươi lăm (1872) có đoạn: “Ngày 26 tháng Giêng năm nay, phủ này bị giặc bể vào công phá, cướp phủ thành. Tôn ông là quan tri phủ chống nhau với giặc bị giặc giết chết, di hài nằm tại trong phủ. Nay tôi nghĩ là người vì con, dân mà hết lòng, vì nhiệm vụ mà xông pha, bị như vậy rất là thương xót cho nên đến nửa đêm ngày 26 tôi đem anh em tuần phiên lần vào phủ tìm kiếm thì thấy thi hài của Người bèn đem về địa phận xã tôi. Nhưng ngặt nỗi vì lúc đó khó mua, kiếm được quan quách sơn son nên phải dùng tạm mấy miếng ván xấu để mai táng…”.

Cai tổng Đặng Văn Lương kể thêm, rằng lúc mới phát hiện thi hài Nguyễn Hữu Quân thì vẫn không biết giặc giết ông bằng cách nào bởi thân thể của ông vẫn còn lành lặn chứ không hề có thương tích, song cho đến lúc khâm liệm thì mới phát hiện lưỡi của ông bị cắt. Theo sự suy đoán của quan cai tổng thì có lẽ khi bị bắt Nguyễn Hữu Quân lớn tiếng mắng nhiếc thậm tệ lũ giặc Tàu Ô nên chúng tức giận… cắt lưỡi ông.

Mặc dù được quan cai tổng Đặng Văn Lương khuyên nhủ cứ để mộ phần Nguyễn Hữu Quân tại Nam Sách vài ba năm cho dân chúng thăm viếng, khói hương để tỏ lòng tri ân vị quan một lòng trung liệt với mảnh đất này nhưng bà Phan Thị Tú nhất quyết đưa hài cốt ông về an nghỉ tại quê cha, đất tổ. Bà chuyển hài cốt của chồng bằng đường thủy vào cửa Thuận An để về Huế. Tại triều đình Huế, các quan Bộ Binh, Bộ Lễ cùng bà đưa linh cữu của ông vào trước Trung Nghĩa từ để thắp hương và lập thần vị thờ ông tại đây. Sau khi làm các thủ tục ghi công tại Huế, bà Tú tiếp tục vượt đèo Hải Vân đưa hài cốt của chồng về quê chôn cất.

Để tưởng thưởng công lao cho Nguyễn Hữu Quân, ngày 25-7-1872, vua Tự Đức truy tặng ông chức Giáo thụ, gia tặng “Phụng thành Đại phu Hàn lâm viện Thị giảng” và ban tờ chế, có đoạn: “Cái khí tiết của người chí sĩ lúc lâm nguy dù chết cũng chẳng đổi dời. Sự biểu dương, khen ngợi của triều đình là còn để khuyến khích cho tương lai mãi mãi. Ngày lành, hợp ý, ngỏ lòng thương xót công lao. Ôi! Nhà ngươi là chức Giáo thụ lại Nhiếp biện công vụ của phủ Nam Sách là Nguyễn Hữu Quân đã quá cố. Ngươi sớm dự vào hàng nho khoa, được ra làm việc nơi quận, huyện, biết đem chính sự thi hành. Bỗng bị giặc quấy mạn đông, một mình phấn đấu chí diệt thù, song thành cô đơn, khó chống giữ nên bỏ nhẹ tấm thân vì nước…”.

Đầu năm 1950, mộ của ông được dòng họ cải táng tại làng Phú Thuận, xã Đại Thắng; đến ngày 4-5-2003 được quy tập về nghĩa trang thôn Ái Mỹ, xã Đại An và ông yên nghỉ ở đó mãi đến bây giờ...

THÁI MỸ

;
.
.
.
.
.