Chùa Một Cột và chùa Diên Hựu

.

* Có người cho rằng chùa Một Cột và chùa Diên Hựu là hai chùa khác nhau. Tôi phân vân vì cứ nghĩ một chùa mang hai tên. Xin quý báo giải thích giùm. (Mỹ An, Sơn Trà, Đà Nẵng).

- Lâu nay nhiều tài liệu, sách báo ghi rằng chùa Một Cột (gọi theo Hán-Việt là Nhất Trụ tháp) hay chùa Mật còn có tên khác là chùa Diên Hựu. Nhưng thực ra, theo các thư tịch cổ và văn bia chùa Một Cột, có thể khẳng định, Diên Hựu là ngôi chùa lớn, được xây bên cạnh chùa Một Cột.

Bài viết “Bên chùa Một Cột từng có chùa Diên Hựu” đăng trên báo Đại biểu nhân dân ngày 11-10-2009 dẫn sách La Thành cổ tích vịnh viết năm 1788 của TS. Trần Bá Lãm (1757-1815) có chép về chùa Một Cột như sau:

Chùa Một Cột. Ảnh: V.T.L
Chùa Một Cột. Ảnh: V.T.L

“Chùa ở tại xã Nhất Trụ, huyện Vĩnh Thuận. Thời xưa, đất ấy bỏ hoang chưa có xóm trại. Cao Biền sang ta đô hộ An Nam bảo đất ấy là chỗ sườn rồng chạy, sai đóng cột đồng vào đấy, cắt đứt long mạch. Về sau dân đến ở thành thôn xã, gọi là Nhất Trụ. Vua Lý Thái Tông tuổi đã cao chưa có người nối nghiệp, đêm nằm mộng thấy đến thôn Nhất Trụ, thấy vị Quan Âm Bồ Tát gọi vua bảo: “Đất này rất linh, cột đồng làm thương tổn đến long mạch đã lâu, nên kịp hủy bỏ đi thì vận nước lâu thêm mấy đời nữa”. Nói xong mời vua lên đài vàng, ẵm tiên đồng ban cho. Tỉnh mộng, vua cho xây chùa ở phía tây làng để thờ Quan Âm Bồ Tát”.

Còn Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Mùa đông, tháng mười (năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ sáu, 1049) dựng chùa Diên Hựu. Trước đấy, vua chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, dắt vua lên tòa. Tỉnh dậy, vua đem việc ấy nói với bề tôi, có người cho là điềm không lành. Nhà sư Thiền Tuệ khuyên vua làm chùa, dựng cột đá giữa đất làm tòa sen của Phật đặt trên cột đá như đã thấy trong mộng, cho các nhà sư đi lượn vòng chung quanh, tụng kinh cầu cho nhà vua sống lâu. Vì thế gọi là chùa Diên Hựu” (Diên Hựu nghĩa là “kéo dài cõi phúc”).

Chính sử ghi thật vắn tắt, khiến chúng ta không hiểu rõ chùa Một Cột có phải là chùa Diên Hựu, và nếu chùa Một Cột chính là chùa Diên Hựu thì, một diện tích khiêm tốn như vậy làm sao đủ chỗ thờ tự, hành lễ, chỗ cho tăng chúng ở?

Một sở cứ rất quan trọng để tìm hiểu rõ về chùa Một Cột và chùa Diên Hựu, đó chính là văn bia chùa Một Cột (Nhất Trụ tự bi) khắc ngày 15 tháng 6 năm Cảnh Trị thứ ba, đời Lê Huyền Tông, 1665: “Nước Việt ta xưa trong thành Long Biên có một cái hồ hình vuông. Năm đầu niên hiệu Hàm Thông Đường, dựng một cái cột đá giữa hồ, trên cột xây một tòa lầu ngọc, trong đó đặt tượng Quan Âm để thờ cúng. Khí đất chung đúc anh linh, cầu gì được nấy. Đến triều Lý xây dựng Kinh đô ở đây cũng noi theo dấu cũ, ngày càng sùng kính, nên càng linh thiêng. Khi Lý Thái Tông chưa có hoàng tử, thường đến đó cầu nguyện. Một đêm nằm mộng thấy Phật Quan Âm mời lên lầu, ôm một đứa bé đặt vào lòng. Tháng đó hoàng hậu có mang hoàng tử. Vua bèn cho sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải chùa Nhất Trụ để mở rộng việc thờ cúng, làm sáng tỏ sự tôn sùng. Trải qua ba, bốn triều đại, đều nối tiếp nhau dựa trên cơ sở cũ sửa sang thêm và được hưởng phúc như cát sông Hằng”.

Văn bia, vốn là nguồn sử liệu đáng tin cậy nhất, đã cho biết: Chùa Nhất Trụ vốn là một tòa lầu ngọc có từ trước thời Lý nhiều thế kỷ. Lý Thái Tông chỉ cho “sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu”.

Sau này, chùa Diên Hựu còn được tu sửa nhiều lần, như Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Mùa thu, tháng 9, năm Long Phù thứ năm, 1105, làm hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa Diên Hựu. Bấy giờ, vua cho chữa lại chùa Diên Hựu đẹp hơn cũ, vét hồ Liên Hoa Đài gọi là hồ Linh Chiểu”.

Một số thư tịch, trong đó có sách Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội của học giả Doãn Kế Thiện chép: “Vào năm Long Phù thứ 8 đời Lý Nhân Tông, 1108, vua cho xuất của kho 1 vạn 2 ngàn cân đồng để đúc một quả chuông lớn có tiếng vang thức tỉnh người đời, gọi là Giác Thế chung. Định là sẽ treo chuông ở chùa Diên Hựu...”.

Tác giả bài đã dẫn kết luận: “Như vậy, cùng với chùa Một Cột, chúng ta còn có một ngôi chùa rất cổ, là chùa Diên Hựu. Qua bao biến động lịch sử, chùa Diên Hựu không còn. Chùa Một Cột, trải bao dầu dãi, thăng trầm, nhờ có nhiều lần trùng tu lớn mà giữ lại được đến ngày nay”.

ĐNCT

;
.
.
.
.
.
.