.

Dáng nét số phận của "nội tướng"(*)

.

Lâu lâu rồi bạn đọc mới được đọc một cuốn tiểu thuyết lịch sử mà nhân vật chính gắn kết cả sinh mệnh cuộc đời với một bậc anh hùng cái thế lỗi lạc. Thân phận nhân vật đó tuy bị giản lược chìm lấp trong dòng sử liệu chính thống nhưng lại có “đời sống” huyền sử, giai thoại thần phả khá phong phú trong nhân gian xứ Thanh. Có lẽ vì lý do trên mà tác giả Lê Ngọc Minh đã đặt cho cuốn tiểu thuyết của mình cái tên Nội tướng chăng?   

Nội tướng viết về Quốc mẫu Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ, người vợ cả của đức Thái tổ Cao Hoàng đế Lê Lợi. “Nội tướng” là “nhũ danh” mà Lê Lợi phong tặng cho người vợ tào khang của mình từ thuở mới cưới. Với “danh phong” đó, Ngọc Lữ thực đáng là một nội tướng gắn bó với sự nghiệp của vị Anh hùng giải phóng dân tộc Lê Lợi trong suốt quãng thời gian cam go và hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cho đến khi đăng quang ngôi báu, và cho đến tận trước lúc băng hà, ngài vẫn trăng trối gọi: “Ngọc Lữ, nội tướng của ta!”.

Nhưng rồi vì sao mà nghị lực, công lao, đức tin của một vị nội tướng làm vợ đức vua khai mở triều đại Hậu Lê, từ buổi hàn vi cũng như khi được hưởng nếm mùi chung đỉnh ở ngôi mẫu nghi thiên hạ lại lâm vào cảnh oan khiên thất sủng trước khi Lê Thái Tổ từ trần có mười hai ngày? Đó là một câu hỏi còn để ngỏ của lịch sử và trong tác phẩm Nội tướng, nhà văn Lê Ngọc Minh đã cố gắng góp những lời kiến giải tâm huyết.

Nội tướng, ngay từ những dòng mở sách đã lôi cuốn độc giả bởi câu văn hết sức tinh tế miêu tả dồn dập những rung động đầu đời của chàng trai trẻ, cậu Rốt - Lê Lợi, con trai chủ sự đất Lam Sơn Lê Khoáng bên tả ngạn Lương Giang với người con gái đẹp Trịnh Thị Ngọc Lữ, ái nữ của hào trưởng đất Bái Đô Trịnh Quốc Hoàn, nơi chàng đến thụ giáo đại danh sư Minh Quang. Giữa hàng trăm sĩ tử bầu rượu túi thơ, văn chương lai  láng, võ nghệ siêu quần của trường Bái Đô chuyên luyện văn, học võ có tiếng trong miền, cô gái từng đánh tiếng kén chồng ba năm đã chủ động phải lòng chàng trai Lê Lợi - kém nàng hai tuổi, trước những con mắt “đau buồn, ngơ ngác” của không ít chàng trai con nhà quyền quý môn đăng hộ đối và nhiều học trò của thầy Minh Quang.

Với Nội tướng, trên hết, Lê Ngọc Minh đã dồn nhiều tâm sức dựng truyện, sáng tạo tình huống, chi tiết thật đặc biệt; vừa có phần huyền ảo tâm linh, mà cũng rất đời thường để xây dựng lên nhân vật Trịnh Thị Ngọc Lữ một cách toàn vẹn từ nhan sắc đến phẩm giá. Không chỉ là người vợ hiền thục, đảm đang, quán xuyến mà Ngọc Lữ còn là người sát cánh động viên, khích lệ, giúp rập Lê Lợi khơi ngọn lửa nhỏ thổi bùng thành ngọn lửa lớn, để có Hội thề Lũng Nhai năm 1416 và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn năm 1418.

Với vai trò là hậu phương, là nội tướng, nàng âm thầm đem đầy tớ gia nhân đi học cách dệt thổ cẩm làm quân trang, quân phục cho nghĩa sĩ; nàng đã cất công đi tìm người thợ già Kẻ Rị rèn gươm báu, và sẵn sàng nhảy vào lửa tạo “nhân khí” để rèn đúc gươm thiêng Đại Định; nàng đã khéo léo giữ được Nguyễn Trãi ở lại căn cứ làm quân sư cho Bình Định Vương để từ ngay buổi đầu dựng cờ, nghĩa quân Lam Sơn đã có cặp đôi thủ lĩnh hoàn hảo: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”. Khi mộ tổ họ Lê đất Lam Sơn bị bọn quân tướng nhà Ngô, Sơn Thọ-Mã Kỳ ở thành Tây Giai tập kích đào, cướp, nàng đã mưu trí cùng các nữ gia nhân Lam Thu, Lam Đông giành lại được…

Bản chất của tình yêu là không san sẻ, Ngọc Lữ cũng có buồn khi phải chia nhường chồng mình với hai người phụ nữ khác mà chính tay nàng dàn xếp cưới về. Đó là vì nàng đã tiên liệu được đại cục của cuộc khởi nghĩa, tiền đồ kinh bang tế thế của chồng. Đó còn là bổn phận, số phận của người được làm vợ vua thời phong kiến. Mọi công việc từ chuyện chăm lo cho chồng con, chăm nuôi con chồng, chăm lo cho gia đình nhà chồng đến cả trang Lam Sơn rộng lớn, làm hậu phương vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn; đến sự nhún nhường, bao dung trước bất cứ một lời dèm pha, đồn đại nào về bản thân, về con trai cả Tư Tề khi nàng được lên ngôi cao, Ngọc Lữ đều đã thực hiện đúng như lời cha mẹ căn dặn trước khi về nhà chồng: “Chín nhường mười nhịn thì ai cũng thương, đi cửa nào cũng lọt con gái nhé” (Nội tướng, tr.59).

Thế mà trước cái chết của Lê Thái Tổ có mười hai ngày, Quốc vương Lê Tư Tề bị biếm chức, bị tước hết binh quyền. Cuộc đời của Thần phi, Quốc mẫu Trịnh Thị Ngọc Lữ, mẹ của vị nguyên Quốc vương cũng theo đó mà gánh theo bao hệ lụy, đến nỗi, chính sử chỉ chép về đức bà: “Thần phi Trịnh Thị Lữ, người trang Bái Đê, huyện Lôi Dương, sinh ra quận vương Tư Tề. Mất vào năm Thái Hòa (1443-1453) đời vua Nhân Tông”.

 Bên cạnh Thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ, trong Nội tướng còn có nhiều hình ảnh phụ nữ khác cũng được nhà văn dụng công xây dựng. Như hai người vợ sau của Lê Lợi, Huê phi Phạm Thị Nghiêu, Hiền phi Phạm Thị Ngọc Trần, tuy là nhân vật phụ nhưng tính cách mỗi người đều khác hẳn nhau, không lẫn vào đâu được, nhân vật nào dựng nên nét dáng số phận ấy. Những số phận hoàn thành vị thế “tồn sinh” của mình, góp phần  đẩy mạch truyện lên cao, đi xa, để tác giả tiểu thuyết giải quyết các tình huống câu chuyện hấp dẫn mà không hề bị khiên cưỡng, nhất là cái “đoạn trường” Hiền phi Phạm Thị Ngọc Trần sẵn sàng hiến dâng cho thần Cá Quả sông Lam nhằm làm yên bụng quân trong lúc sóng gió tơi bời với lời trăng trối, sau này xin Lê Lợi sẽ dành ngôi cho con trai là Lương quận công Lê Nguyên Long của nàng. Tình tiết rất dụng công này của nhà văn, vừa mang tính tâm linh, vừa là việc quân cơ trước một thử thách nghiệt ngã chiến trường. Quả thật về sau, Lê Thái Tổ  đã rất giằng co dằn vặt trong việc nhường ngôi. Rồi ngài vì một lời hứa mang phương diện đế vương phải quyết định phế trưởng lập thứ.

Bên cạnh nhân vật lịch sử Trịnh Thị Ngọc Lữ, nhân vật Lê Lợi đã tham gia vào tiểu thuyết Nội tướng một cách quán xuyến và chi phối cốt truyện, đó là chân dung một vị Anh hùng giải phóng dân tộc có cuộc sống đời thường dân dã mà phong phú hấp lực cuốn hút trang lứa, cộng đồng; có nhuần nhã bản lĩnh cương nhu mà anh hoa đởm lược hơn người… Thế nên Nội tướng “không chỉ là câu chuyện trong nhà của Quốc mẫu mà nó ôm trùm sự nghiệp vĩ đại của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, cuộc kháng chiến chống xâm lược Minh mười năm liền của dân tộc ta với những tên tuổi chói sáng…”. (Nội tướng, tr.13).

Đọc Nội tướng, chúng tôi còn thấy nhà văn Lê Ngọc Minh có một thế mạnh trong việc đưa những kiến văn của các bậc thánh hiền, danh sĩ vào ngôn ngữ giao tiếp của các nhân vật một cách uyển chuyển. Thao tác bút pháp này làm cho phông tiểu thuyết vừa có “không khí” lịch sử, vừa tôn vinh thêm tầm vóc nhân vật.

Nguyễn Thu Hằng
(*) Đọc Nội tướng, tiểu thuyết của Lê Ngọc Minh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2018.

;
;
.
.
.
.
.