Tháo gỡ được vướng mắc trong quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp

.

ĐNO - Đây là ý kiến chỉ đạo của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải tại hội thảo lấy ý kiến tham gia dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp do Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội tổ chức tại Đà Nẵng sáng ngày 16-8.

Cùng chủ trì hội thảo có Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận; Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Lê Quang Mạnh; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách Phạm Thúy Chinh. Về phía thành phố, Phó Chủ tịch UBND thành phố Trần Chí Cường tham dự.

Ủy ban Tài chính, Ngân sách (Quốc hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến tham gia dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Ảnh: M.Q
Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải phát biểu tại hội thảo. Ảnh: M.Q

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, Luật số 69/2014/QH13 của Quốc hội về quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp đã xử lý xung đột lợi ích lớn nhất trong quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp Nhà nước, đó là tách bạch quyền sở hữu vốn với quyền quản lý Nhà nước, góp phần tạo nên nền kinh tế với các nguyên tắc thị trường được tôn trọng

Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng, minh bạch hơn, làm tăng niềm tin thị trường, tăng niềm tin đầu tư từ khu vực tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực hiện, mặc dù được đánh giá có tiến bộ lớn nhưng Luật hiện hành cũng phát sinh nhiều bất cập, đồng thời chưa tách bạch chức năng đại diện vốn chủ sở hữu với chức năng quản lý doanh nghiệp.

Dẫn đến có trường hợp các cơ quan chức năng coi toàn bộ vốn và tài sản của doanh nghiệp có vốn Nhà nước là tài sản Nhà nước để quản lý nên hoạt động quản trị kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước chịu sự chỉ đạo, can thiệp của nhiều cơ quan Nhà nước, chưa phát huy tính năng động, sáng tạo và vẫn xảy ra nguy cơ thất thoát vốn.

Vì vậy, quá trình thẩm tra dự án Luật cần lưu ý bảo đảm thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng; bảo đảm tính tương thích với các quy định quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.

Bảo đảm tính đồng bộ thống nhất trong nội tại Luật và trong hệ thống pháp luật, các quy định về tổ chức thực hiện, điều khoản chuyển tiếp.

Bảo đảm nguyên tắc Nhà nước là chủ sở hữu đầu tư vốn, nhưng không can thiệp hành chính vào hoạt động kinh doanh, quản trị của doanh nghiệp; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tạo sự chủ động, phát huy tính năng động, sáng tạo của doanh nghiệp Nhà nước cùng với việc có cơ chế quản lý chặt chẽ, tránh lạm dụng làm thất thoát tài sản Nhà nước.

Tăng cường tính công khai, minh bạch trong các hoạt động của doanh nghiệp có vốn Nhà nước; gắn trách nhiệm của đơn vị, người đại diện vốn Nhà nước.

Bảo đảm chất lượng của dự thảo Luật, tính khả thi của các quy định; bảo đảm các quy định của Luật giải quyết, tháo gỡ được khó khăn, vướng mắc trong quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp hiện nay.

Đẩy mạnh sắp xếp, cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhà nước theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Phân tích, đánh giá kỹ lưỡng những vấn đề còn bất cập của Luật hiện hành, những vấn đề mới, phát sinh, tiếp thu kinh nghiệm quốc tế để bảo đảm chất lượng, hiệu quả sau quá trình thẩm tra, chỉnh lý và hoàn thiện dự án Luật.

Qua đó, trình Quốc hội ban hành được một đạo luật tốt, khả thi, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và những vấn đề đặt ra khi sửa đổi Luật.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đề nghị Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách tiếp tục tổ chức các hội thảo, tọa đàm lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, các bộ, ngành, địa phương, giúp Quốc hội có nhìn nhận, đánh giá đa chiều đối với việc quản lý và đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận phát biểu tại hội thảo. Ảnh: M.Q
Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận phát biểu tại hội thảo. Ảnh: M.Q

Tại hội thảo, các đại biểu góp ý vào các nội dung tại dự thảo Luật như: đối tượng áp dụng; vấn đề quản lý vốn Nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp; trích lập Quỹ đầu tư phát triển tại doanh nghiệp từ lợi nhuận sau thuế; phạm vi đầu tư vốn Nhà nước; hoạt động đầu tư của doanh nghiệp; sắp xếp, cơ cấu lại vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp; cơ quan, người đại diện chủ sở hữu vốn… qua đó góp phần tiếp tục hoàn thiện hồ sơ Luật.

Ông Nguyễn Ngọc Ánh, Phó Giám đốc Sở Tài chính cho biết, Điều 10 dự thảo quy định nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ, kiểm toán Nhà nước và UBND cấp tỉnh trong việc quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Tuy nhiên, dự thảo chỉ nêu nhiệm vụ của UBND cấp tỉnh là “thanh tra, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp có vốn Nhà nước đầu tư theo chức năng, nhiệm vụ được giao về quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, định mức kinh tế ngành, lĩnh vực, khu vực, vùng, địa bàn”. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh cho phù hợp.

Tại Điều 13 và Điều 14 dự thảo quy định liên quan đến thẩm quyền, trình tự, thủ tục quyết định công tác nhân sự, chiến lược kinh doanh, kế hoạch đầu tư phát triển của doanh nghiệp: “cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn gửi hồ sơ và văn bản lấy ý kiến của cơ quan tài chính cùng cấp về cử người đại diện chủ sở hữu vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp” và “người đại diện chủ sở hữu vốn của Nhà nước gửi lấy ý kiến của cơ quan tài chính cùng cấp về chiến lược kinh doanh, kế hoạch đầu tư phát triển của doanh nghiệp”.

Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan tài chính là tham mưu về công tác quản lý tài chính doanh nghiệp nói chung. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát, điều chỉnh dự thảo theo hướng cơ quan tài chính cùng cấp là cơ quan phối hợp với các cơ quan chuyên môn trong việc tham mưu cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn quyết định công tác nhân sự, chiến lược kinh doanh, kế hoạch đầu tư phát triển tại doanh nghiệp có vốn Nhà nước đầu tư trực tiếp…

MAI QUẾ

;
;
.
.
.
.
.
.