Nhà văn của làng với những chuyện làng
ĐNO - Phạm Lâm đã âm thầm khẳng định năng lực và tố chất, song phải đến khi cho ra đời tập văn “Chuyện làng”, anh mới thực sự khẳng định mình trong tư cách một nhà văn.

Có lẽ nhiều bạn văn chỉ quen biết với Phạm Lâm chừng hơn mười năm nay. Bởi trước đó anh là cán bộ nhà nước mẫn cán, ít giao du văn nghệ. Rồi nghỉ hưu, anh chơi với văn nghệ vì đam mê. Khởi đầu là Chủ nhiệm Câu lạc bộ thơ nhạc Sông Tranh. Và tại đây, đam mê và khả năng kết nối của anh mới thật đắc dụng.
Câu lạc bộ thơ nhạc Sông Tranh là câu lạc bộ bền bỉ và bề thế: Cho ra đời sáu tập thơ (“Hiệp Đức tuổi hai mươi” năm 2006, “Lời quê” năm 2007, “Tình quê” năm 2009, “Vẫy nắng lên xanh” năm 2015, “Quê hương vẫy gọi” năm 2017, “Miền yên ả” năm 2020); tổ chức ra mắt hoành tráng, có sự giao lưu của văn nghệ sĩ trong và ngoài tỉnh.
Phạm Lâm đã âm thầm khẳng định năng lực và tố chất của mình. Song phải đến khi cho ra đời tập văn “Chuyện làng”, anh mới thực sự khẳng định mình trong tư cách một nhà văn.“Chuyện làng” là bao huyền tích làm nên văn hóa một vùng đất, những huyền tích một thời bà kể cháu nghe trong những đêm trăng: Sự tích mục đồng cầu bông, Trần Bình đả hổ, Gành Tiên và Nước Mắt... Những huyền tích đẹp đẽ ấy đang dần mai một theo thời gian và sắp sửa mất dấu trong thời công nghệ 4.0, Phạm Lâm đã kịp thời lưu dấu.
Mỗi nhà văn thường có một thời điểm riêng của mình, và nhà văn Phạm Lâm đã xuất hiện đúng thời điểm. Vì vậy mà bạn đọc ở quê rất yêu mến anh, song đam mê và trách nhiệm chưa đủ làm nên một nhà văn. Phạm Lâm là nhà văn bởi bắt đúng cái “tông”, cái điệu của làng bằng giọng văn giản dị mà thấm thía.
Giọng văn anh gần gũi với giọng quê, khề khà kể chuyện mà không quá trau chuốt. Mà đó là giọng của làng, như gió quê, như tiếng suối, như tiếng chim bìm bịp kêu chiều... Và bằng giọng quê ấy Phạm Lâm đã lưu giữ được cái hồn quê neo trên triền núi, văng vẳng khắp đầu nguồn sông Thu, như tiếng thương, như lời sẻ chia ai oán, như lời ca từ mấy trăm năm vọng lại: “Ai về nhắn với Ba Hang, Thuồng luồng đã bị hổ mang hại rồi” (Sự tích Thuồng luồng Ba Hang). Có lẽ từ cú hích thành danh có tên “Chuyện làng” mà “Chuyện làng” tập 2 này ra đời chăng?
Suy đoán có phần đúng hướng bởi phần đầu của “Chuyện làng” tập 2 là “Dấu xưa”, một tiếp nối của những chuyện làng với những địa danh đình làng Phước Sơn, tiền hiền làng An Sơn, với những nhân vật của quê hay những con người đã đến với quê và đi vào lịch sử như Nguyễn Duy Hiệu và căn cứ An Lâm, như cụ Lê Ấm - “người con rể của Phan Châu Trinh trên đất Hiệp Đức”.
“Hậu tích” là phần hai của tập sách, những ghi nhận về chiến công và hy sinh của con dân Hiệp Đức cho sự nghiệp chung: Phạm Văn Mua, Hai Lũy, Trần Ngọc Tuấn, Đặng Công Thật, Võ Kiện, Trần Thanh Hồng...
Ở đây là những chia sẻ, vinh danh những người anh, người bạn trong thời của anh, như anh kể: “Trần Thanh Hồng, với tôi vừa là người anh, vừa là người bạn chung xóm, chung làng từ những ngày còn thơ ấu (...), không so đo tuổi tác, anh, tôi và những đứa trẻ cùng nhau chăn trâu, cắt cỏ, rủ nhau chơi trò ú tim, rồi chia phe đánh trận, dẫu cho cuộc thắng thua chỉ quẩn quanh trong giới hạn của lũy tre làng”.
Cũng vì phần lớn là những câu chuyện ngày nay nên chuyện không còn phủ một màu nên thơ cổ tích nữa. Giọng văn cũng thiên về giọng báo chí để chuyển tải thông tin. Phần hai đáng ghi nhận ở nỗ lực kiếm tìm đầy trách nhiệm của Phạm Lâm.
Thiên về chức năng nhận thức, có lẽ tập sách sẽ đánh rơi một số bạn đọc, song bù lại cũng sẽ có riêng những bạn đọc tri ân. Tôi nghĩ khi lựa chọn đề tài, lựa chọn cách viết, Phạm Lâm đã dự đoán được bạn đọc giả định của mình.
Khởi từ tập thơ “Con sóng lòng anh” là một đam mê, trụ vững trong văn chương với “Chuyện làng”, tiếp tục với “Chuyện làng” (tập 2), Phạm Lâm đã chạy nước rút bởi anh biết thời gian viết của người cầm bút là hạn định, mà anh đã gia nhập câu lạc bộ “cổ lai hy”. Nhớ câu “cổ lai tồn lão mã/ bất tất thủ trường đồ”, nên được chặng này cứ vui chặng này đã. Cũng đã yêu và trách nhiệm với cuộc đời, cuộc chơi lắm rồi!