.

Cẩm Lệ - Hóa Khuê, miền địa linh

.

Từ trong tâm hồn, người dân Cẩm Lệ luôn ghi tạc cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài 19 tháng trước sức tấn công ồ ạt của hàng ngàn quân Pháp - Tây Ban Nha với tàu chiến và khí giới hiện đại vào cửa biển Đà Nẵng năm 1858. Cẩm Lệ và Hóa Khuê chính là hai địa danh gắn liền với tên tuổi nhiều danh tướng và khu nghĩa trủng giờ đây vẫn được người dân gìn giữ.

Đội quân xâm lược cuối cùng đã phải rút khỏi vùng đất yết hầu này của miền Trung với hàng ngàn binh lính thương vong để lại ở “Đồi hài cốt” nằm lưng chừng bán đảo Sơn Trà lịch sử.

Chiến thắng Đà Nẵng 1858-1860 là chiến công thể hiện lòng yêu nước của nhân dân Đà Nẵng - Quảng Nam, và cũng là công sức của hàng vạn chiến sĩ nghĩa binh của cả nước dưới tài lãnh đạo của các tướng tài Đào Trí, Châu Phước Minh, Ông Ích Khiêm, Phạm Thế Hiển cùng nhiều tướng lĩnh đương thời khác, nhất là Lê Đình Lý, Nguyễn Tri Phương. Đó cũng là tấm lòng của đồng bào cả nước cùng nhau gìn giữ cho dù một tấc đất quê hương.

Sử cũ ghi: “Vua sai Tổng đốc Nam Ngãi là Trần Hoằng đem 2.070 người (biền binh mãn hạn) đến tiếp ứng”; “Nguyễn Huy, Hồ Ba Ba đem 2.000 cấm binh từ Huế đi gấp vào chống giữ từ Câu Đê đến Hải Vân...”, “Vua Tự Đức sai Nguyễn Sĩ Long đi mau đến Quảng Nam đốc thúc dân phu xay gạo, tải lương đến quân thứ... một lực lượng quân từ Bình Định cũng được đưa ra hỗ chiến”. Sau khi Lê Đình Lý tử thương, “Vua lệnh cho các quan ở Thừa Thiên mộ thêm một đợt quân mới đặt tên là Chiến Tâm (sau đổi thành Vệ Nghĩa Dũng) để gởi vào Quảng Nam đánh giặc”...

Nhiều danh sĩ xứ Bắc như đốc học Nam Định Phạm Văn Nghị, nhà thơ Đặng Huy Trứ từ Thuận Hóa..., kẻ dùng ngòi bút động viên lòng yêu nước, kẻ chiêu mộ binh sĩ vào cùng các nghĩa binh quyết một trận sống mái với quân thù... Có chuyện kể rằng, thi hào Nguyễn Công Trứ từ Hà Tĩnh lúc đó đã ngoài 80 cũng xung phong vào chiến đấu ở Đà Nẵng.

Những sử liệu và lời kể đó cho thấy, mặt trận Đà Nẵng trong cuộc chiến tranh vệ quốc kéo dài 19 tháng này là công sức của nhân dân cả nước trước hiểm họa xâm lăng của phương Tây...

Riêng các địa danh Cẩm Lệ, Hóa Khuê thời đó, ta có thể ghi lại từ Đại Nam thực lục: “Tháng Tám (1858), Tổng đốc lê Đình Lý chia phái lính và voi đóng đồn ở các cơ sở Chân Sáng, Nam Ô, Cẩm Lệ, Hóa Khuê và cho lính phòng chặn...”. Đến đầu tháng 10-1858, Pháp hành quân đánh phá vào Mỹ Thị rồi tiến sang Cẩm Lệ. Tại đây, ta và địch đánh nhau một trận quyết liệt. Tổng đốc Lê Đình Lý cầm quân chống trả ngoan cường, nhưng trước hỏa lực mạnh của địch, đa số quân sĩ bị thương vong, phần bỏ chạy, bản thân Lê Đình Lý trúng đạn trọng thương...

Ngày nay, ngoài các di tích liên quan đến cuộc chiến giữ nước vẻ vang này như: Đồi hài cốt, Thành Điện Hải, Nghĩa trủng Phước Ninh (chỉ còn 2 ngôi mộ và bia tưởng niệm)..., còn có Nghĩa trủng Hòa Vang hiện nằm trên địa bàn phường Khuê Trung (quận Cẩm Lệ), được coi là di tích khá trọn vẹn nhất dù đã được di dời nhiều lần trong thế kỷ trước (Nghĩa trủng Sơn Trà đã bị cày ủi xây dựng căn cứ hải quân trước năm 1975). Tuy nhiên, Nghĩa trủng Hòa Vang vẫn chứa những thông tin có ý nghĩa: Được quy tập và xây dựng vào năm “Tự Đức thứ 19, tháng Năm, ngày tốt” tại Trủng Bò còn ghi lại trên bia đá. Năm 1940, Pháp xây dựng sân bay phải di dời ra vườn ông Bá (Khuê Trung). Năm 1962, sân bay Đà Nẵng mở rộng lại, phải di dời lần nữa về địa điểm hiện nay, cạnh nhà thờ tiền hiền làng Khuê Trung...
Ông Huỳnh Ngọc Tế, là cơ sở cách mạng và nguyên là xã trưởng Khuê Trung đầu những năm 1970 kể lại với chúng tôi: Lúc đó, nghĩa trủng còn là những ngôi mộ bằng đất, nhân dân Hòa Cường, Khuê Trung đã vận động đóng góp công của để xây lại bằng xi-măng và trích 2 mẫu ruộng công lo cúng tế hằng năm...

Nghĩa trủng có hai câu đối bằng chữ Hán, được Lê Duy Anh - Lê Hoàng Vinh dịch: “Người xưa đã xa rồi, nay dựng tượng đài mà vẫn bàn đến đời của họ và nghĩ đến con người thời ấy/ Tổ quốc thiêng liêng với những chí sĩ anh hùng thời ấy, noi dấu đời trước để chấp cánh cho đời sau”.

Cách đây hơn 10 năm, nhân lễ kỷ niệm 140 năm (1858-1998), Bộ Văn hóa và Thông tin đã cấp bằng Di tích lịch sử cấp quốc gia cho Nghĩa trủng Hòa Vang. Lúc đó, lễ tưởng niệm đã được huyện Hòa Vang và Sở Văn hóa - Thông tin thành phố tổ chức kết hợp với lễ tế tiền hiền phường Khuê Trung.

Tuy nhiên, nhiều vấn đề liên quan đến trận chiến Cẩm Lệ - Hóa Khuê và các di tích khác cần vẫn chưa được nghiên cứu: Mộ danh tướng Lê Đình Lý đang ở đâu? Ngôi mộ chính ở nghĩa trủng Hòa Vang (ghi trên bia: Tiền triều đại tướng quý công mộ) tương truyền khi dời về đây có cả đoản kiếm lẫn áo mão là nơi yên nghỉ của danh tướng nào? Nhiều ứng dụng vũ khí mới (như địa chấn lôi, ống phun lửa, xích sắt chắn các dòng sông...) và chiến thuật chiến tranh “độn thổ” thời Nguyễn Tri Phương đã được nghiên cứu, sáng chế và kế thừa ra sao?...

Riêng thành lũy Hóa Khuê - Cẩm Lệ do Nguyễn Tri Phương tổ chức xây dựng tuy bằng đất, tre và vật liệu tại chỗ lại bị đối phương phá hoại sau đó, nếu được tìm thấy chút di tích nào, chắc chắn sẽ vô cùng quý giá không chỉ riêng với lịch sử quận Cẩm Lệ.

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG

;
.
.
.
.
.