.

Về núi rừng Việt Bắc nhớ Dũng Mã - Sơn Mã

.

Việt Bắc không chỉ là một địa danh lịch sử mà còn là một vùng non nước hữu tình luôn thu hút đông đảo du khách. Mỗi lần về đây, tôi lại nhớ đến hai anh em chiến tướng Dũng Mã và Sơn Mã nổi danh từ thời đánh Pháp. Nhờ lập công xuất sắc, Dũng Mã là một trong ba cán bộ chỉ huy trẻ, đều tên Dũng, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi lên khen ngợi sau Chiến dịch Biên Giới. Dũng Mã cũng là một trong hai chỉ huy trẻ xuất hiện bên cạnh hai vị lãnh tụ tối cao trong bức ảnh nổi tiếng do nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An chụp trước hang đá Lam Sơn...

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (hàng sau, từ phải sang) và Dũng Mã, Thái Dũng (hàng trước, từ phải sang) trước hang đá Lam Sơn ở Cao Bằng năm 1950. Ảnh: Vũ Năng An
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp (hàng sau, từ phải sang) và Dũng Mã, Thái Dũng (hàng trước, từ phải sang) trước hang đá Lam Sơn ở Cao Bằng năm 1950. Ảnh: Vũ Năng An

Vì sao có bí danh Dũng Mã - Sơn Mã?

Dũng Mã - Sơn Mã là hình ảnh tiêu biểu của trí thức trẻ đã tự nguyện dấn thân vào con đường cứu nước. Dũng Mã tên thật Nguyễn Xáng, sinh năm 1923, còn người em kề là Sơn Mã tên thật Nguyễn Huynh nhỏ hơn anh 2 tuổi, sinh năm 1925. Cả hai anh em cùng sinh trưởng ở quê hương Quảng Nam - Đà Nẵng, không ai cầm tinh con ngựa, nhưng vì sao lại đều lấy bí danh có chữ Mã?

Hai mươi năm trước, vào mùa thu 1997, trong cuộc gặp gỡ với tác giả bài viết, Thiếu tướng Dũng Mã cho hay, anh em ông vốn rất yêu thích ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác khoảng năm 1944, lúc Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân còn chưa được thành lập. Ca khúc lúc ấy phổ biến khắp nơi, có sức thôi thúc bao lớp thanh niên tòng quân giết giặc cứu nước, với nhạc và lời hùng tráng. Bước vào con đường cách mạng, hoạt động bí mật, mỗi người đều cần có bí danh. Chàng trai Nguyễn Xáng vốn rất ham cưỡi ngựa, lại mê bài hát “Bao chiến sĩ anh hùng/Lạnh lùng vung gươm ra sa trường…/Bao chiến mã lên đường/Giục lòng dân quân thi can trường…”, nên đã lấy tên Dũng Mã. Sau đó, người em Nguyễn Huynh từ miền Trung ra Việt Bắc, noi theo anh đặt bí danh cho mình là Sơn Mã.

Quê nội ở xã Điện Tiến, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nhưng hai anh em Dũng Mã - Sơn Mã đều sinh ra và lớn lên ở quê ngoại xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. “Cha tôi là một nông dân rất hiếu học nhưng lại không có điều kiện đi học đến nơi đến chốn. Ông tự học chữ Nho và chữ quốc ngữ, viết được văn tự, giúp bà con trong làng khi có việc. Ông là người nghiêm khắc, còn mẹ tôi là một phụ nữ chân quê, hiền lành, hết lòng vì chồng con - Thiếu tướng Dũng Mã kể - Nhà tôi đông anh chị em, ba gái bảy trai. Cha tôi bảo rằng do không có điều kiện nên chỉ đứa nào lanh lợi, tiếp thu nhanh, sức khỏe tốt mới được học lên cao”. Ông học hết cấp hai thi đậu diplome, đang học tiếp cấp ba thì thi đỗ vào Trường Cao đẳng Công chính Hà Nội. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ông vừa học vừa tham gia hoạt động trong Hội Sinh viên cứu quốc. Tình hình đất nước ngày càng lâm nguy, ông cùng nhiều sinh viên khác “xếp bút nghiên” lên đường nhập ngũ và được cử đi học Trường Quân chính Bắc Sơn tại Thái Nguyên đầu năm 1946.

Cũng năm 1946, tốt nghiệp Trường Quân chính Quảng Ngãi, Nguyễn Huynh - Sơn Mã được điều ra Việt Bắc làm huấn luyện viên Trường Sĩ quan Trần Quốc Tuấn. Giữa năm 1949, Đại đoàn 308 - Quân Tiên phong, đại đoàn đầu tiên của quân đội ta được thành lập, do Vương Thừa Vũ làm Tư lệnh và Song Hào làm Chính ủy, hai anh em Dũng Mã - Sơn Mã được cùng về công tác ở đại đoàn này. Tuy ở hai tiểu đoàn khác nhau, nhưng họ thường tham gia cùng một chiến dịch, có khi cũng phối hợp tác chiến một số trận, chia sẻ thắng lợi lẫn khó khăn.

Một góc núi rừng tỉnh Hà Giang bình yên hôm nay. Thời chống Pháp, đây là một trong những vùng đất hợp thành tên gọi Việt Bắc thân thương. (Ảnh chụp tháng 7-2017)
Một góc núi rừng tỉnh Hà Giang bình yên hôm nay. Thời chống Pháp, đây là một trong những vùng đất hợp thành tên gọi Việt Bắc thân thương. (Ảnh chụp tháng 7-2017)

Tấm ảnh lịch sử quý giá trước vách đá Lam Sơn

Cuối năm 1950, lúc vừa bế mạc Hội nghị tổng kết Chiến dịch Biên Giới tại khu rừng núi đá gần phía nam thị xã Cao Bằng, nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An đến bảo Dũng Mã: “Theo đề nghị của anh Văn, Bác cho gọi ba cậu Dũng đến gặp Bác tại nhà riêng”. Dũng Mã phấn khởi thu xếp ngay lên đường. “Ba cậu Dũng” là Thái Dũng - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 88, Thế Dũng - Chính trị viên Trung đoàn 102, và Dũng Mã - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 - Phủ Thông. Tất cả đều thuộc Đại đoàn 308.

“Nhà riêng” của Hồ Chủ tịch theo lời nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An thật ra là một cái lán nhỏ ở cửa hang núi đá Lam Sơn. Thái Dũng và Dũng Mã đến trước. Sau khi nghe hai chỉ huy trẻ báo cáo, lãnh tụ gật đầu khen: “Hai Dũng đánh giặc giỏi, tên xứng với người”. Rồi Người ân cần căn dặn: “Dũng cảm nhưng cần phải mưu trí nữa”. Nhìn thấy cánh tay phải của Thái Dũng bị cụt bàn tay, Hồ Chủ tịch xúc động hỏi: “Chú có gặp khó khăn lắm trong sinh hoạt và chiến đấu không?”. Trung đoàn trưởng Thái Dũng trả lời: “Thưa Bác, dần dần cháu cũng quen. Chỉ có trèo cây và leo núi đá là khó thôi ạ!”…

Chờ mãi mà không thấy Chính trị viên Trung đoàn 102 Thế Dũng đến, nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An sợ trời hết nắng, mới xin phép cho chụp một bức ảnh kỷ niệm nhân buổi gặp thân mật. Đó chính là một trong những bức ảnh lịch sử nổi tiếng nhất trong thời đánh Pháp ở Việt Bắc. Sau ngày đất nước thống nhất, Bảo tàng Quân đội đã tặng lại tướng Dũng Mã bức ảnh này khổ lớn để làm kỷ niệm…

Sự hy sinh oanh liệt của Sơn Mã và sự động viên của hai nhà lãnh đạo tối cao

Bước vào thu đông 1952, Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở Chiến dịch Lê Hồng Phong 2 giải phóng Tây Bắc. Lúc đó, Dũng Mã đã được thăng chức Trung đoàn phó Trung đoàn 209 - Sông Lô thuộc Đại đoàn 312, mà Hoàng Cầm là Trung đoàn trưởng. Trung đoàn Sông Lô là một trong những trung đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội. Còn người em Sơn Mã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 84 thuộc Trung đoàn 36, Đại đoàn 308.

Bấy giờ, quân ta đang thắng lớn trên chiến trường phía Tây Bắc, bộ chỉ huy địch cho một binh đoàn tinh nhuệ nhảy dù xuống Đoan Hùng giáp ranh hai tỉnh Tuyên Quang và Phú Thọ nhằm đánh vào hậu phương ta để đỡ đòn cho hướng Tây Bắc. Trung đoàn 36 được lệnh cấp tốc quay về đánh quân Pháp rút lui từ Đoan Hùng về Việt Trì thuộc Phú Thọ, giành thắng lợi lớn, tiêu diệt trên bốn trăm tên địch và nhiều xe cơ giới.

Trên đường truy kích địch tháo chạy theo đường số 2, đoạn cầu Hai - Trạm Thản, Tiểu đoàn trưởng Sơn Mã dẫn đầu một bộ phận Tiểu đoàn 84 đánh địch, bất ngờ bị trúng đạn vào đầu tại Trạm Thản. Ông hy sinh khi trận đánh sắp kết thúc, vào lúc 5 giờ 30 chiều ngày 17-11-1952. Thiếu tướng Dũng Mã nhớ lại: “Sơn Mã là một cán bộ chỉ huy tiểu đoàn được đánh giá xuất sắc. Khi chú ấy ngã xuống, cả tiểu đoàn đều khóc. Hơn mười ngày sau, lúc chuẩn bị đánh trung tâm Nà Sản ở Sơn La tôi mới hay tin. Đau lòng lắm anh ạ! Hai anh em ruột từ miền Trung xa xôi ra Việt Bắc chiến đấu, giờ chỉ còn lại mình tôi...”.

Đầu tháng 12-1952, Dũng Mã bị thương trong trận tấn công cứ điểm Bản Vây của quân Pháp, một điểm cao nằm khống chế phía tây trung tâm Nà Sản. Ông được đưa về điều trị tại bệnh viện dã chiến gần thị xã Hòa Bình. Khoảng mười ngày sau, ông bất ngờ nhận được thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng thiệp chúc mừng năm mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh kèm theo một chiếc áo lụa. Trong thư, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: “Lúc đầu tôi được tin Sơn Mã và Dũng Mã đều hy sinh nên rất buồn, nhưng sau được biết Dũng Mã chỉ bị thương nên viết thư thăm và chia buồn. Cậu tranh thủ viết kinh nghiệm về trận đánh vừa qua. Bác có quà gửi tặng cậu đây...”. Còn tấm thiệp chúc Tết Quý Tỵ - 1953 của Chủ tịch Hồ Chí Minh do chính tay Người viết mấy dòng bằng mực đỏ: “Bác gửi biếu chú một cái áo lụa và chúc chú mau lành mạnh. Nhờ chú chuyển cho anh em thương binh, bệnh binh, cán bộ và nhân viên ở nhà thương - lời thân ái chúc năm mới của Bác”.

Cuộc đời binh nghiệp của vị tướng xuất thân trí thức Dũng Mã có nhiều bước ngoặt. Sau khi tốt nghiệp Trường Quân chính Bắc Sơn, ông được chọn về làm thư ký riêng cho Tổng tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gần hai năm, rồi ra chiến đấu ở Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312, tham gia nhiều chiến dịch lớn trên chiến trường Bắc Bộ.

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, ông là Trung đoàn trưởng - Đặc phái viên tác chiến của Bộ Chỉ huy chiến dịch. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng Pháp, Dũng Mã về Hà Nội được phân công làm Trưởng khoa Chiến thuật Trường Quân sự trung cao cấp - tiền thân của Học viện Lục quân ngày nay. Sau đó, ông được điều sang làm Tham mưu trưởng Quân khu Đông Bắc, rồi Tham mưu trưởng Hải quân Đông Bắc. Đến năm 1970, ông sang Lào làm Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận 31 Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng phối hợp tác chiến với bộ đội Pa-thét Lào. Đối tượng tác chiến chính trên chiến trường Lào bấy giờ là lực lượng đặc biệt của tướng phỉ Vàng Pao và quân chính quy Thái Lan với sự yểm trợ về không quân, hậu cần của Mỹ.

Cuối năm 1973, Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Dũng Mã bị thương khá nặng tại sở chỉ huy tiền phương đặt ở sườn núi Phu - Húa - Sạn (điểm cao 1.830 mét), trong lúc trực tiếp chỉ huy đánh trả cuộc tiến công lấn chiếm của địch ra phía nam Cánh đồng Chum. Ông được đưa cấp tốc về Hà Nội rồi sang Moskva điều trị gần một năm. Sức khỏe bình phục, ông được chuyển về công tác ở Bộ Tổng tham mưu. Đến cuối năm 1977, ông lại được điều về làm Chủ nhiệm Khoa Lịch sử quân sự, rồi Cục trưởng Cục Kế hoạch huấn luyện của Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng) do Thượng tướng Hoàng Minh Thảo làm Giám đốc.

Từ chiến trường đến nhà trường, bằng tri thức và tinh thần trách nhiệm cao, ở đâu tướng Dũng Mã cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được đồng đội và binh lính thuộc quyền yêu mến. Ông còn được truyền tụng như một chiến binh thiện xạ, có khả năng cùng lúc cả hai tay cầm súng bắn chính xác mục tiêu.

Lịch sử đã sang trang. Nhưng để có được sự yên bình, độc lập, thống nhất, tự do cho Tổ quốc phải đánh đổi bao hy sinh tuổi xuân lẫn xương máu của hàng triệu người như Dũng Mã - Sơn Mã. Cách đây tròn 15 năm, tướng Dũng Mã cũng đã bất ngờ ra đi sau một tai nạn vào tháng 6-2002. Ở dưới suối vàng, chắc ông cũng tìm về Việt Bắc sum họp cùng người em Sơn Mã và bao đồng đội năm xưa!

PHAN HOÀNG

(Ghi theo lời kể của các nhân vật năm 1997)

;
.
.
.
.
.