Nhớ Tết Nhâm Dần 1962

.

Phạm Minh Trương, tức Hai Trương, sinh năm Bính Tý 1936. Tròn tuổi hai mươi, gia đình cưới vợ cho Hai Trương. Cô Ba Trắc nhỏ người, cao ráo, nhỏ hơn Hai Trương một tuổi. Khi cha mẹ gả con đi lấy chồng, cô còn giữ bò, cắt cỏ, vớt rong, chưa kịp để mắt đến chàng trai nào trong làng.

Người dân du xuân Tết Nguyên đán Nhâm Dần (1962) tại Hà Nội. Ảnh: TTXVN
Người dân du xuân Tết Nguyên đán Nhâm Dần (1962) tại Hà Nội. Ảnh: TTXVN

Nhân dịp xuân về, tôi theo Đại tá Nguyễn Văn Tâm về quê anh vui Tết. Anh đưa tôi đến nhà bạn thân là Hai Trương. Gặp nhau, hai bạn nhắc lại những lần đi vùng sâu tổ chức trận địa đánh địch, tranh thủ qua làng thăm bà con kiếm cái ăn...

Một hôm ba anh em Tâm, Khách và Mười Nghiêu vào thăm ông già Tuất. Trước đó mấy hôm, ác liệt quá, thằng Tự chạy xuống vùng địch, khai báo sao đó, địch bắt mấy cơ sở, làm dân làng lo lắng. Cho nên, thấy mấy anh em tôi vào, già Tuất vẫn chào ‘‘mấy chú về đó hả’’. Miệng chào, mặt lạnh, ngồi xoay lưng ra, khoác khoác hai tay, nói nghe long óc: Dẹp, dẹp. Cho bay ăn uổng cơm! Ăn rồi khai báo, chúng bắt dân đánh nhừ tử.

Già Tuất chửi cho hả giận, vẫn ngồi, làm thinh. Vợ ông thì cười, bưng thức ăn lên bàn mời anh em. Anh em ta chỉ nhìn nhau cười trừ, không thanh minh thanh nga gì hết. Dân xem anh em du kích, bộ đội như con, như cháu. Anh em làm sai bà con giận, bà con chửi. Chửi mà thương. Ngồi im nghe chửi thì bà con hết giận liền!

Ngồi nhìn anh em ta ăn ngon lành, già Tuất đứng dậy, bước lại vỗ vai từng anh em, giọng trầm trầm: “Địch tình, bom, mìn, đi lại, nhớ cảnh giác, đói thì về đây ăn, ác liệt, gian khổ đến mấy thì cố mà bám cái gốc cây trên rừng, chớ chạy đi chiêu hồi”. Già Tuất nói nhẹ nhàng, đơn giản, dễ hiểu vô cùng, anh em nhớ suốt đời.

Ông bà Tuất sinh một đàn con, đặt tên khó đọc kinh: Hai Tuất, Ba Trắc, Bốn Nhạu, Năm Nhọa, Sáu Tọa (hy sinh), Bảy Tum. Cô Ba Trắc kể ngày bước chân về nhà chồng: “Tôi không biết phải làm gì, đóng vai gì trong ngôi nhà lạ, với ông gia, bà gia, với một đàn em của chồng là: Ba Nhơn, Bốn Hương, Năm Thôi… Chồng suốt ngày đi làm, tối về ôm em trai ngủ. Sáng chưa tan sương đến tối đỏ đèn, tôi cùng bà gia hôm đào khoai, hôm vớt rong, cắt rau, ngày ba bữa nấu cơm, rửa chén, tối lại lên cái giường tre ngủ với cô Năm Thôi”.

Hai ông bà gia sinh người con thứ năm đặt tên Thôi - Năm Thôi, là nêu quyết tâm: Thôi! Không đẻ nữa! Ông không chịu thôi. Bà phải chiều, sinh thêm cho ông một cái thằng, đặt tên Nữa. Sáu Nữa tưởng hết đòi. Đi mô mấy ngày về, ổng lại đòi. Vậy là, sinh thêm một cái thằng. Không thể út mà Út Hơn.

Ở nhà chồng, đông anh chị em thì hiểu vì sao cưới nhau bốn năm trời mà ông bà nội vẫn chưa có chút cháu bồng. Thế rồi, chồng lặng lẽ rời gia đình, đi biệt.

-  Cô Ba Trắc có kỷ niệm gì ngày chia tay chồng không?

- Thấy ổng hay qua lại với mấy anh em trong làng, rồi thấy mấy anh em rủ nhau vác rựa, mạng bội, lên rừng cắt lá thì biết ổng chuẩn bị đi, chớ ổng không nói chi hết. Sau này, bà già nói lại, mấy ổng lên rừng cắt lá, là lấy cớ nhằm che mắt bọn ấp trưởng, xã trưởng, nghĩa quân, để bắt liên lạc với mấy ông cách mạng hẹn ngày về đón.

- Đi về nhà chồng, tôi bỏ bầy em cho cha mẹ đẻ, làm chị dâu cả, phải gánh cái gánh nặng trĩu của gia đình nhà chồng - cô Ba cười, rớm rớm nước mắt: Tuổi con trâu tài chi cực như trâu. Chồng đi rồi, tôi cùng cha mẹ chồng dắt Năm Thôi, bồng thằng Sáu Nữa và Út Hơn vào ở trong quy khu… 

Hội đồng xã Kỳ Khương và tay chân ép buộc những gia đình có con trai trúng tuổi quân dịch, không ra trình diện hoặc sẽ đến tuổi quân dịch phải được quản lý chặt. Chúng xây dựng quy khu Xưởng Dầu và quy khu Trảng Tôn, bắt 24 gia đình tập trung vào quy khu Xưởng Dầu. Chúng bắt các gia đình dọn một cái nhà vào ở tập trung, bắt dân đào hào, đắp bờ cao 1,5 mét, dựng hàng rào xung quanh bằng gai tre, gai lưỡi long. Bờ rào phía đường số 1 bằng dây thép gai bùng nhùng, có dân vệ canh gác. Buổi sáng từ 5 đến 6 giờ, chúng mở cửa cho dân về vườn cuốc đất, trồng rau. Buổi chiều từ 17 giờ đến 18 giờ, mọi người phải có mặt trong quy khu. Ban đêm, nội bất xuất, ngoại bất nhập, chủ yếu giữ chân những thanh niên của những gia đình có mối quan hệ gắn bó với cách mạng, với kháng chiến 9 năm chống Pháp. Đó là ‘‘tiền thân’’ của khu trù mật, ấp chiến lược sau này.  

- Rồi ông già, bà già bị địch bắt bỏ tù. Năm Thôi bị bệnh dịch chết trong quy khu… Vậy là tôi phải lo cho hai em chồng, ngó chừng lính gác sơ hở liền trốn về vườn cuốc cỏ trồng khoai, gieo mè kiếm cái ăn, ra sông vớt rong, xuống ruộng mò rạm, đi đâu cũng dẫn hai thằng em chồng theo. Thỉnh thoảng phải kiếm chút cá, chút tươi đi ra tận ngoài Tam Kỳ thăm mẹ ruột. Bấy giờ, thằng Út Hơn mới sáu, bảy tuổi. Nhớ mà thương, mỗi khi tôi rúc rào về vườn thì hắn dặn chỗ nào có mìn. Có lẽ, thiếu cha, vắng mẹ, xa anh, làm cho chúng khôn trước tuổi. Một hôm, thằng Út Hơn thậm thụt đưa cho tôi xem đồng bạc có ảnh Bác Hồ, rồi hắn lấy cái ống lồ ô dùi cái lỗ, đút đồng bạc vào trong ống, bịt lại. Tôi hỏi:

- Chi trong nớ mà mầy làm kỹ rứa? Vẻ bí mật, hắn nói, đồng bạc ni có Bác Hồ trong nớ.

- Đâu mi có?

- Em được mà! Em đút trong tấm phên nghe chị.

- Không được! Có Bác Hồ mà mi đút trong phên, tụi hắn đốt nhà thì cháy mất.

- Hắn đưa cái ống lô ồ cho tôi, dặn: Chị cất cho em, mình chị biết thôi, đừng cho thằng Nữa biết. Giải phóng còn cái ni là được! Nữa là anh, thằng Út cứ mi tau…

Một hôm, Đội công tác về báo cho bà con chuẩn bị tư thế, sẵn sàng, bỏ nhà, bỏ ruộng vườn, lên núi. Nghe cái tin ai cũng lo. Đi hay ở là vấn đề sinh tử. Ở lại trong quy khu thì cực, tù túng, rõ rồi. Đưa cả gánh nặng gia đình lên núi non, xa vời vợi, đất đâu, ruộng đâu, phân đâu, lấy chi cuốc cày làm ra cái ăn. Và, bom đạn của Mỹ, có nơi đâu chúng chừa!

Mấy ảnh về báo động được mấy hôm, vừa ăn Tết xong, nhớ cái Tết con Cọp - Nhâm Dần - 1962, Đội công tác do Sáu Thân chỉ huy về đưa bà con đi. Tôi đưa mẹ chồng, hai em theo cùng mấy gia đình, gồng gánh, dắt cả bò, gánh cả heo, gà, bám theo anh em đội công tác, nửa đêm, băng đồng, lội ruộng lên tận thôn Mười, xã Kỳ Sanh. Ba bốn gia đình ở chung trong một cái nhà dài, ven chân núi thấp. Rời làng quê thân yêu, ra đi trong đêm, đến nơi còn lạ lẫm, gạo mắm trợ cấp ăn chưa đủ no. Thằng Nữa tham gia du kích địa phương. Thằng Út Hơn xin đi bộ đội.

Ở quê nhà, không có gạo thì ra vườn hái nhúm rau khoai, rau dền, cải. Hết mùa khoai thì xuống sông hái trái vẹt, trái bần, trái mắm… Còn ở đây, tự lo cho có cái ăn qua ngày thôi quả là chưa có phương hướng.

Mới nửa buổi, sương núi vừa tan, bỗng hai chiếc trực thăng Mỹ gầm gừ vòng trên đầu, lượn hai vòng thì nghe tiếng rốc két ầm ầm làm mấy cái nhà bốc cháy. Cái ba lô không kịp mang ra hầm, cháy đen. Cháy hết áo quần. Thế rồi, mẹ tôi nhận được tin thằng Út Hơn hy sinh ở sân bay Kỳ Bích. Tôi khóc. Tôi khóc quá chừng. Tôi thương thằng Út Hơn biết chừng nào!

Hai Trương ngồi im nghe vợ nói chuyện với chúng tôi. Khi cô Ba Trắc dừng câu chuyện thì ông nghiêng nhìn sang phía vợ: “Chúng tôi sống với nhau từ ngày cưới đến chừ, chưa nói lộn một tiếng. Bả có công nuôi hai bà mẹ, mẹ tôi và mẹ bả là hai Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Hai Trương nói đến đó thì cô Ba Trắc bổ sung thêm: “Và nuôi hai đứa em của ông nữa”.

Năm 1973, trên đường ra Bắc, Bí thư Tỉnh ủy Hoàng Minh Thắng ghé thăm trại sản xuất của Tỉnh ủy ở Tiên Lãnh. Bí thư Tỉnh ủy hỏi thăm anh chị em công tác ở trại sản xuất, hỏi tình hình chồng con thì biết, Ba Trắc còn trẻ, khỏe, sao chưa có con? Chỉ có một lý do là ‘‘khó gần nhau quá!”. Thế là, Bí thư Tỉnh ủy lệnh trại trưởng gọi Hai Trương đến trại sản xuất, cho ‘‘gần vợ’’ một tuần. ‘‘Tuần trăng mật’’ ở trại sản xuất, cô Ba Trắc có bầu. Con gái đầu lòng sinh trên núi, đặt tên là Hoa.

Sau ngày hòa bình, mùa xuân năm 1978, cô Ba sinh con trai, đặt tên Phạm Minh Quang. Sinh con trai được hai tháng mười lăm ngày, Hai Trương nhận lệnh sang chiến trường Campuchia… Xuân này, năm 2022, Phạm Minh Quang mang quân hàm đại tá công an.

Ngày nào các cháu về thăm, là món quà quý nhất tặng ông bà. Là ngày hai ông bà như trẻ lại, rất vui. Đó là ngày xuân vĩnh hằng.

HỒ DUY LỆ

;
;
.
.
.
.
.