Trong khuôn khổ chương trình hội thảo quốc tế “Hoàng Sa - Trường Sa: Sự thật lịch sử”, ngày 21-6, Bảo tàng Đà Nẵng phối hợp với Hội Khoa học lịch sử thành phố, Đại học Đà Nẵng và Trường Đại học Phạm Văn Đồng tổ chức triển lãm “Hoàng Sa - Trường Sa: Phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam”.
Nhà nghiên cứu độc lập Andre Menras (giữa) trả lời phỏng vấn báo chí bên lề Triển lãm “Hoàng Sa - Trường Sa: Phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam”. |
Phát biểu khai mạc triển lãm, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử thành phố Đà Nẵng Bùi Văn Tiếng khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là phần lãnh thổ mãi mãi không thể tách rời của Việt Nam. Theo ông Bùi Văn Tiếng, những hình ảnh, tư liệu, bản đồ, hiện vật được trưng bày tại cuộc triển lãm giúp cho các đại biểu có cái nhìn khách quan về sự thật không thể phủ nhận là từ lâu đời, các Nhà nước Việt Nam đã xác lập thực thi chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa phù hợp với các quy định liên quan của luật pháp quốc tế; lãnh thổ Trung Quốc từ bao đời nay chỉ kết thúc ở đảo Hải Nam Trung Quốc, không có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Các đại biểu quốc tế và trong nước được tận mắt chứng kiến nhiều tư liệu pháp lý lịch sử khẳng định Việt Nam đã xác lập, thực thi chủ quyền một cách hòa bình, liên tục đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Triển lãm giới thiệu một số văn bản Hán Nôm do các Nhà nước phong kiến Việt Nam ban hành vào thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX- khẳng định các nhà nước Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền liên tục đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ trước đến nay như các châu bản triều Nguyễn có niên đại từ thời Minh Mạng (1820-1841) đến thời Bảo Đại (1925-1945), viết về các đội Hoàng Sa được triều đình phong kiến Việt Nam cử đi khai thác quản lý Hoàng Sa, Trường Sa… Đây là những văn bản chính thức của Nhà nước phong kiến Việt Nam, có giá trị về mặt pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Ngoài ra, triển lãm cũng giới thiệu nhiều cuốn sách cổ viết về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa như: Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư của Đỗ Bá tự Công Đạo (1686); Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn biên soạn năm 1776; Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821); Hoàng Việt địa dư chí (1833); Đại Nam thực lục tiền biên (1844-1848); Đại Nam thực lục chính biên (1844-1848); Việt sử cương giám khảo lược (1876); Đại Nam nhất thống chí (1882); Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1910); Quốc triều chính biên toát yếu (1910)…
Triển lãm cũng giới thiệu phiên bản Hải ngoại ký sự của nhà sư Trung Quốc Thích Đại Sán (1696), An Nam đại quốc họa đồ của giám mục người Pháp Louis Taberd (1838)...; trưng bày các bản đồ cổ của Việt Nam và phương Tây thể hiện hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam; các bản đồ nước ngoài và Trung Quốc về cương vực lãnh thổ của Trung Quốc kết thúc ở đảo Hải Nam, không có hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Đặc biệt, có Bộ Atlas thế giới của Phillipe Vandemaelen xuất bản năm 1827 tại Bỉ lần đầu tiên được công bố, trong đó vẽ và miêu tả rõ quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ của Vương quốc An Nam.
Các đại biểu cũng tận mắt nhìn thấy những tư liệu mới khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do nhân dân cả nước hiến tặng cho Nhà nước như: Bản gốc giấy khai sinh của bà Mai Kim Quy sinh ra ở Hoàng Sa do cơ quan hành chính Pháp đặt tại Hoàng Sa cấp năm 1940; hồ sơ đèn biển được Pháp xây dựng ở Hoàng Sa năm 1937; cuốn biên niên của Nha khí tượng Đông Dương năm 1940 do Phủ toàn quyền Đông Dương xuất bản năm 1942 liệt kê các thông số về thời tiết do các trạm khí tượng đo được tính đến ngày 31-12-1940 trong đó có trạm số 48859 trên đảo Phú Lâm và trạm 48860 trên đảo Hoàng Sa thuộc quần đảo Hoàng Sa; Trạm số 48919 trên đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa. Đây là những tư liệu có giá trị lịch sử, pháp lý cao, chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa dưới thời Pháp thuộc.
Triển lãm sẽ kéo dài đến hết ngày 25-6.
Bước leo thang mới của Trung Quốc nhằm độc chiếm Biển Đông
Sáng 21-6, trong khuôn khổ Hội thảo quốc tế “Hoàng Sa - Trường Sa: Sự thật lịch sử”, các đại biểu đã tham dự hai phiên tọa đàm về hành động hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 của Trung Quốc trong vùng biển của Việt Nam.
Tại phiên thứ nhất, các học giả tập trung đánh giá về khía cạnh pháp lý của hành động hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 của Trung Quốc. Các học giả cho rằng về mặt pháp lý thì nhìn từ bất kỳ góc độ nào, hành động hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc là bất hợp pháp. Các học giả cho rằng, theo tọa độ của Cục Hải sự Trung Quốc thông báo thì vị trí hoạt động của giàn khoan hoàn toàn nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam. Việc Trung Quốc đơn phương hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 ở khu vực này là không phù hợp với quy định của luật pháp quốc tế.
Các diễn giả đều cho rằng việc Trung Quốc cho Hoàng Sa là của Trung Quốc không có tranh chấp là không thể chấp nhận được; việc Trung Quốc cố gắng thay đổi nguyên trạng là vi phạm luật pháp quốc tế và Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) mà chính Trung Quốc đã ký với ASEAN năm 2002.
Trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, nhiều diễn giả đã chỉ rõ những nội dung phi lý trong lập luận của Trung Quốc về việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981. Việc Trung Quốc coi vị trí hoạt động của giàn khoan này thuộc vùng tiếp giáp của quần đảo Hoàng Sa là không thể chấp nhận. Mặt khác, việc Trung Quốc vẽ khu vực hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 trên bản đồ “đường lưỡi bò” thể hiện sự mập mờ trong các yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Việc Trung Quốc coi vị trí giàn khoan Hải Dương-981 hoạt động thuộc vùng nước của đảo Tri Tôn thể hiện tiêu chuẩn kép trong yêu sách vùng nước cho các cấu trúc trên biển vì Trung Quốc coi đảo Okinotori Shima của Nhật Bản chỉ là đá, có vùng biển tối đa 12 hải lý. Quan điểm của Trung Quốc về vùng nước hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 cũng không nhất quán, lúc đầu thì thông báo khu vực này thuộc lãnh hải của đảo Tri Tôn sau lại cho rằng là thuộc vùng tiếp giáp của đảo Tri Tôn.
Về hướng giải quyết vấn đề trước việc Trung Quốc ngoan cố không rút giàn khoan và các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển Việt Nam và không chịu ngồi vào đàm phán với Việt Nam, các diễn giả cho rằng giải pháp tốt nhất hiện nay là sử dụng các biện pháp pháp lý và các cơ chế tài phán quốc tế. Trước tiên, cần yêu cầu Trung Quốc tuân thủ luật pháp quốc tế và sử dụng các cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế. Trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982, có thể khởi kiện theo một số vấn đề như: hiệu lực của đảo, nghĩa vụ phải đạt được thỏa thuận tạm thời trong vùng có tranh chấp; các vi phạm an ninh, an toàn và tự do hàng hải…
Tại phiên tọa đàm thứ hai, các học giả đã đi sâu đánh giá ý đồ của Trung Quốc trong việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. Các ý kiến cho rằng, hành động này của Trung Quốc là bước leo thang mới nhằm hiện thực hóa yêu sách “đường lưỡi bò” và độc chiếm Biển Đông; phá vỡ nguyên trạng ở Biển Đông, đe dọa hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải ở Biển Đông. Cũng có ý kiến cho rằng Việt Nam nên tham khảo kinh nghiệm của Philippines trong việc sử dụng biện pháp đấu tranh pháp lý.
Các diễn giả cho rằng hành động hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc là nhằm khống chế Biển Đông. Với việc Trung Quốc khống chế bãi cạn Scarbourgh của Philippines năm 2012 phía Đông “đường lưỡi bò”; lần này hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 ở phía tây “đường lưỡi bò” và Trung Quốc đã nhiều lần diễn tập quân sự ở bãi Tăng Mẫu, điểm cực Nam của “đường lưỡi bò”, rõ ràng mục tiêu của Trung Quốc là từng bước hiện thực hóa “đường lưỡi bò”. Hành động hạ đặt giàn khoan của Trung Quốc làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Nhiều ý kiến đã đánh giá cao nỗ lực và thiện chí giải quyết hòa bình tranh chấp của Việt Nam; cho rằng Việt Nam cần tiếp tục tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong vấn đề này để tạo sức ép với Trung Quốc, ngăn cản những hành động leo thang mới.
Tin và ảnh: GIA HUY