Chính trị - Xã hội

Nhớ ngày lập công dâng Bác

08:59, 19/05/2015 (GMT+7)

Năm 1969, sau đợt Tổng tiến công Tết Mậu Thân, địch chuyển hướng chiến tranh cục bộ sang “Việt Nam hóa chiến tranh”, từng bước xuống thang, nhằm mục đích thay màu da trên xác chết, chúng thực hiện âm mưu “Bình định cấp tốc”, thành lập các đoàn bình định, đưa về quản lý dân ở những nơi chúng chiếm đóng.

Chúng biến các xã vành đai Đà Nẵng thuộc huyện Hòa Vang thành vành đai trắng. Về cánh Đông khu 3 Hòa Vang có các xã Hòa Hải, Hòa Long, Hòa Lân, Hòa Phụng, Hòa Đa, Hòa Phước; các xã thuộc phía Đông Nam như: Hòa Lân, Hòa Phụng (nay phường Hòa Quý); Hòa Long, Hòa Hải (nay phường Hòa Hải) thuộc quận Ngũ Hành Sơn.

Địch xúc hết dân ở các vùng tranh chấp của ta như: vùng 6 An Nông, vùng 5 Tân Trà, vùng Trà Khê, Xuân Nhâm, Hải Châu, vùng Tây, vùng Nam Đông Trà vào 2 khu dồn Dốc Ngự và Cống Tiềm. Các khu vực ta đứng chân đều bị cày trắng, địch đánh phá hết sức ác liệt.

Ông Mai Thanh Đông, tháng 2 - 1972.
Ông Mai Thanh Đông, tháng 2 - 1972.

Lúc bấy giờ, tôi là cán bộ Khu 3 (sau năm 1970 đến 1973 là Chánh văn phòng Khu 3), được quyết định của đồng chí Trần Thanh Kim, Tỉnh ủy viên, Bí thư Khu 3 tăng cường về công tác Hòa Hải, làm Đội trưởng “Đội quyết tử trụ bám” vùng 5 Tân Trà, Hòa Hải.

Đây cũng là thời kỳ thử thách bản thân để sớm được đứng vào hàng ngũ vinh quang của Đảng. Tôi và tập thể Chi đoàn vùng 5 Tân Trà tích cực vận động hơn 30 em thiếu nhi từ “khu dồn Cống Tiềm” và vùng 5 trên Tân Trà với hơn 20 nữ thanh niên, hình thành “Đội quyết tử trụ bám” tổ chức lễ tuyên thệ tại nhà mẹ Chàng vào chiều 31-3-1969 với 4 lời thề đanh thép: Một là, sống thì sống trên đất Hòa Hải, chết thì chết trên đất Hòa Hải, trên giang sơn mà Đảng giao bám trụ; hai là, khắc sâu mối thù với bọn Mỹ và tay sai, quyết đánh đến cùng, mỗi ngày ít nhất phải tấn công chúng một trận; ba là, không sợ hy sinh, không sợ ác liệt, dù gian khổ, tra tấn, tù đày cũng quyết giữ trọn lòng trung với Đảng, chí hiếu với dân; bốn là, đoàn kết một lòng, sống chết có nhau, tình sâu nghĩa nặng.

Suốt thời gian chỉ đạo vận động trụ bám, chúng tôi tổ chức cho các chị và các em thiếu nhi, số lớn đi sản xuất, trồng rau, bắt ốc, đánh lưới để nuôi nhau, các em nhỏ hình thành các tổ canh gác cảnh giới địch, các tổ đánh địch, diệt ác trong lòng địch. Suốt 6 tháng trường đưa hàng trăm hộ dân từ khu dồn về làng cũ, tôi trở về lại đơn vị cũ Văn phòng Đảng ủy Khu 3.

Anh Mai Văn Trước, Bí thư chi bộ Vùng 5, là đảng viên hợp pháp, tính tình hiền lành, ít nói, nhưng luôn gần gũi, gắn bó với mọi người, được nhân dân tin yêu, quý mến. Anh động viên tôi: “Thành tích của chú thật xứng đáng trong vận động, thành lập đội quyết tử trụ bám. Nhân kỷ niệm Ngày sinh của Bác, chú lập một chiến công dâng Bác để được đứng vào hàng ngũ của Đảng”. Trăn trở trước lời động viên của đồng chí bí thư, tôi càng cố gắng và quyết tâm hơn.

Năm 1969, đến Ngày sinh nhật Bác, địch tập trung quân hàng tiểu đoàn Mỹ-ngụy bảo vệ quanh khu liên hợp quân sự của Mỹ ở Đà Nẵng. Vào sáng 19-5-1969, khát vọng lập cho được chiến công trong Ngày sinh của Bác để sớm được đứng vào hàng ngũ vinh quang của Đảng của tôi trở thành hiện thực.

Hôm ấy, tôi đi công sự (tức hầm bí mật) với người bạn thân thiết nhất ở cùng xóm, cùng làng, cùng cắp sách đến trường, cùng vào Đội Thiếu niên Tiền phong, cùng thoát ly ở chung một cơ quan, đó là anh Trương Văn Tranh, Đội trưởng bảo vệ Khu 3 (cuối năm 1969 anh hy sinh). Tôi nói với Tranh, đồng chí ở lại công sự, mình đi liên lạc với cơ sở có chút việc. Biết tôi làm Đội trưởng “Đội quyết tử trụ bám”, Tranh không ngăn cản và hỏi sâu câu chuyện mình đi đâu.

Lên khỏi công sự, tôi thay bộ quần áo hợp pháp, áo sơmi trắng, quần tây xanh, dáng dấp một cậu học sinh ở Đà Nẵng mới về, mang theo giấy tờ hợp pháp phòng thân khi bị bắt. Từ nơi ở công sự Vùng 5 lên Vùng 2 khoảng hơn 1km, nơi quân Mỹ dã ngoại chốt giữ. Tôi đi hợp pháp lên đến cồn Ông Tố khoảng 5 giờ sáng, trời còn sớm, gặp lô cốt đầu tiên của quân Mỹ, tôi chào chúng bằng tiếng Anh. Tên Mỹ trắng chặn lại hỏi tôi đi đâu.

Tôi trả lời với chúng bằng tiếng Anh: Tôi đi học ở Đà Nẵng. Vượt qua khỏi bót, tôi lượn quanh một vòng từ vườn nhà ông Xanh, sang vườn bà Nhàn, qua vườn ông Lập, duy nhất có tên Mỹ trắng cận thị đang đọc báo. Tôi lùi lại vườn bà Nhàn, nhìn bọn lính Mỹ đi phục kích về còn ngủ say.

Tôi bò vào vườn cà của bà Nhàn, đến nơi thằng Mỹ ngủ, tôi sè sẹ rút khẩu cối cá nhân M79 mà nó đang gối đầu dưới áo giáp, nhưng thằng Mỹ vẫn không hay biết. Lấy được khẩu súng M79 của thằng Mỹ tôi mừng khó tả, đem giấu vào gò mả cách đó khoảng 10m, ngụy trang cẩn thận. Bước ra ngoài, khi đi về, tôi gặp lại tên Mỹ trắng cận thị đọc báo.

Tôi giả bộ chào xã giao, rồi trở về theo lối cũ. Toán lính Mỹ cồn Ông Tố quăng cho tôi một hộp thức ăn cá nhân, tôi mang xuống lại công sự, trình bày với Tranh về kết quả lấy được khẩu M79 của Mỹ, lập được chiến công dâng Bác để sớm được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Hai anh em khui đồ hộp liên hoan mừng chiến thắng.

Đến 9 giờ 19-5-1969, bọn Mỹ thức dậy, mới biết mất súng, chúng nghi bà Nhàn lấy. Sau khi biết tôi lấy súng của Mỹ, bà Nhàn đã bỏ nhà đi nơi khác. Chúng đốt toàn bộ ngôi nhà của bà. Sáng hôm ấy, bọn trẻ con ở các nơi khác vào bán kem, chúng bắt đánh và đập hết các thùng kem, có đứa bị chúng quăng xuống ao. Tên Mỹ làm mất súng, bị bọn chỉ huy trói lại, cho trực thăng chở về nơi đóng quân ở sân bay Nước Mặn.

Lập được chiến công đầu, tối 20-5, địch rút quân, tôi cùng anh Năm Cừ, Thường vụ Đảng ủy Khu 3, Trưởng ban An ninh về lại Vùng 2. Tôi lấy khẩu cối cá nhân M79, bảng nhựa bóng loáng mang về, đổi cho đơn vị trinh sát Khu 3 khẩu AK báng gấp để tiện đi công tác. Tôi, anh Năm Cừ gặp bà Nhàn, động viên nỗi mất mát tài sản của bà sau vụ lính Mỹ mất súng. Bởi vì bà là một trong những gia đình cơ sở cách mạng trung kiên, có chồng đi tập kết, dẫu có mất mát tài sản nhà cửa bà cũng vui lòng, góp một phần nhỏ trong chiến công chung ấy.

Sau 1 tháng lập công dâng Bác, tôi có quyết định kết nạp đảng viên vào ngày 20-6-1969, do đồng chí Trần Thanh Kim, Bí thư Khu 3 ký. Đến nay tôi đã tròn 46 năm tuổi Đảng.

Hơn 40 năm qua, gia đình tôi vẫn thờ Bác nơi trang trọng nhất, nhắc nhở bản thân tôi phải làm nhiều việc tốt, không có tư tưởng vụ lợi, không ham danh vọng, mong sao hoàn thành tốt nhiệm vụ Đảng giao. Nhìn lại quãng đời mình, tôi thấy mãn nguyện, các con tôi đều trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, những cán bộ ưu tú của Đảng. Là một “Gia đình văn hóa”, “Gia đình hiếu học tiêu biểu” cấp thành phố.

MAI THANH ĐÔNG

Chủ tịch Hội Luật gia quận Ngũ Hành Sơn

.