“Chúng ta có vinh dự và trách nhiệm để nuôi dưỡng, tiếp sức cho những ước mơ đó trở thành hiện thực. Phải chăng điều đó là sự tương đồng với phát biểu: “Chúng ta trở nên lớn lao bởi những ước mơ” của vị Tổng thống Hoa Kỳ thứ 28, ngài Woodrow Wilson”, Thủ tướng nói.
Ảnh: VGP/Quang Hiếu |
Thủ tướng nhấn mạnh điều này tại Diễn đàn Cải cách và phát triển Việt Nam 2019 (VRDF 2019) với chủ đề “Việt Nam: Khát vọng thịnh vượng - Ưu tiên và hành động” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Ngân hàng Thế giới (WB) và các đối tác phát triển tổ chức chiều 19-9.
Mở đầu phát biểu, cho rằng các đại biểu, các chuyên gia có thể nói là bậc thầy về kinh tế đã phải nghe nhiều số liệu từ sáng tới nay, nghe nhiều phân tích, nhiều con số, tỷ lệ phần trăm, vì vậy ở thời điểm sắp kết thúc Diễn đàn, Thủ tướng bày tỏ, ông muốn chia sẻ về một Việt Nam không ngừng mơ ước.
Vào những thập niên đầu sau chiến tranh, đất nước Việt Nam khi đó còn muôn vàn khó khăn, tỷ lệ nghèo đói rất cao, những gia đình Việt Nam chỉ ước mơ có được những bữa cơm, có áo ấm, con em được đến trường học hành tử tế, một cuộc sống không còn đói rét và vất vả.
Từ năm 1986, công cuộc Đổi mới lan tỏa sâu rộng, đã chắp cánh cho bao giấc mơ được hiện thực hóa, để rồi hơn 70 triệu người, gần 1,3% dân số thế giới, trong những thập niên sau đó đã vươn lên, vượt qua cái đói, cái nghèo, muôn nhà ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành như chính mong ước bình dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong 30 năm Đổi mới, kinh tế Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao và đó là cơ sở để tỷ lệ đói nghèo từ mức rất cao trên 53% năm 1992 (mức 1,9 USD một ngày, theo tỷ giá PPP năm 2011), giảm 10 lần chỉ còn 5,23% năm 2018 theo chuẩn nghèo đa chiều. Đồng thời tầng lớp trung lưu cũng tăng lên, chiếm hơn 15% dân số và đang tăng rất nhanh. Xét về quy mô dân số, có thể nói rằng đây là một trong những cuộc vượt đói nghèo vĩ đại trong lịch sử các nước.
Những trẻ em sinh ra từ thập niên đầu Đổi mới nay đã trưởng thành, có những ước mơ trong họ nay đã thành hiện thực, nhiều người đã là thầy cô giáo, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, ca sĩ, vận động viên… song có thể vẫn còn đó nhiều ước mơ đang dở dang với nhiều day dứt. Những con trẻ ngày nay đang lớn lên trong điều kiện cuộc sống tốt đẹp hơn trước và có những mơ ước tiếp nối mơ ước bậc cha mẹ, những bậc đi trước với những khát vọng bay cao hơn, vươn xa hơn.
“Chúng ta có vinh dự và trách nhiệm để nuôi dưỡng, tiếp sức cho những ước mơ đó trở thành hiện thực. Phải chăng điều đó là sự tương đồng với phát biểu: “Chúng ta trở nên lớn lao bởi những ước mơ” của vị Tổng thống Hoa Kỳ thứ 28, ngài Woodrow Wilson”, Thủ tướng nói. “Một Việt Nam không ngừng mơ ước và đã hành động với những ước mơ đó trong toàn bộ lịch sử cải cách và phát triển”.
Ước mơ, khát vọng hướng về phía trước dù rất đẹp nhưng thực tại là những điều chúng ta buộc phải đối mặt, buộc phải vượt qua. Với quan điểm nhìn thẳng vào những hạn chế, yếu kém, Thủ tướng đồng tình, đánh giá cao nhiều nhận định xác đáng của các chuyên gia quốc tế về những tồn tại, những hạn chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro, khả năng chống chịu, thích ứng với những tác động bên ngoài của Việt Nam còn yếu. Năng lực tiếp cận nền kinh tế số còn nhiều hạn chế. Gần đây, tốc độ tăng GDP có xu hướng chững lại, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu còn cao. Năm 2018, dân số Việt Nam đứng thứ 3 trong ASEAN, quy mô kinh tế đứng thứ 6. Tham gia chuỗi giá trị toàn cầu còn thấp. “Những hạn chế yếu kém đó không làm chúng tôi chùn bước mà càng thôi thúc chúng tôi không chỉ có khát vọng, không chỉ ước mơ mà phải hành động”, Thủ tướng bày tỏ và nêu rõ, trong quá trình này rất mong có sự đồng hành của cộng đồng quốc tế.
Việt Nam xây dựng Chiến lược phát triển 2021-2030 trong bối cảnh có nhiều diễn biến khó lường của thế giới, trong đó có chiến tranh thương mại, chủ nghĩa bảo hộ, biến đổi khí hậu... Tình hình đó đòi hỏi phải có bản lĩnh vững vàng, tự tin tiếp tục thực hiện 3 đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng, phát huy nguồn nhân lực. Phải giữ gìn môi trường hòa bình, giữ vững ổn định chính trị xã hội để phát triển nhanh và bền vững.
Thứ hai, thực hiện đổi mới mạnh mẽ thể chế kinh tế, chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện đại, hội nhập, phục vụ người dân, doanh nghiệp, hướng tới nền kinh tế số, xã hội số.
Thứ ba, phát huy nội lực, giải phóng các nguồn lực tiềm năng trên cơ sở thúc đẩy mạnh mẽ khoa học công nghệ mới, thúc đẩy khu vực tư nhân năng động, sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, động lực phát triển.
Tiếp tục đầu tư mạnh mẽ hơn nữa cho nền giáo dục quốc gia. Chỉ có con đường học tập con trẻ mới hiện thực hóa ước mơ của mình, tiếp nối ước mơ còn dang dở của cha ông.
Thứ tư là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, có sức chống chịu và khả năng thích ứng cao, thực hiện mục tiêu phát triển bền vững SDG 2030 thịnh vượng đến mọi nhà, không ai bị bỏ lại phía sau.
Thứ năm là mở rộng đối ngoại, hội nhập quốc tế sâu rộng, thực hiện hiệu quả các hiệp định FTA đã ký, tiếp tục tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu. Thủ tướng cho biết, thời gian qua, Việt Nam đã nỗ lực hợp tác FDI, tham gia các hiệp định FTA quy mô lớn, theo đó đã hướng dòng chảy đi qua Việt Nam của các chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng toàn cầu với các tập đoàn xuyên quốc gia. Điển hình như hợp tác sản xuất, “xuất khẩu hàng hóa có địa chỉ” với Samsung, LG, Fujitsu, Aeon, Nestle, Nike, Intel. Tuy vậy, chỉ mới có 21% doanh nghiệp Việt Nam tham gia liên kết với chuỗi cung ứng nước ngoài, thấp hơn tỷ lệ của Thái Lan là 30%, Malaysia là 46%. Tỷ lệ nội địa hóa bình quân của Việt Nam mới đạt 33% nên mức độ tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu còn thấp, doanh nghiệp Việt Nam chỉ mới thu được “tiền lẻ” trong các chuỗi giá trị toàn cầu.
“Không có cách nào khác là Việt Nam phải hành động vươn lên, phát huy nguồn nhân lực năng động, sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ mới nhằm nâng cao trình độ để ngày càng có nhiều doanh nghiệp Việt Nam đủ năng lực tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và tiếp nhận chuyển giao công nghệ, mạnh mẽ tiến lên những “nấc thang” có giá trị gia tăng cao hơn. Nhìn rộng ra, phải chăng đây là một phương cách để nâng cao năng lực, sức cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế, góp phần giúp Việt Nam nâng cao quốc lực, tự tin phát triển nhanh, bền vững, không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình", Thủ tướng phát biểu.
Thủ tướng cho biết, những ý tưởng chính sách nhằm hoàn thiện thể chế mà TS David Dollar, Viện Brookings, Hoa Kỳ, nêu ra cần được nghiên cứu nghiêm túc để triển khai cụ thể. Kinh nghiệm về tránh bẫy thu nhập trung bình nhờ đổi mới sáng tạo, như ông Yogeesvaran, nguyên Thứ trưởng Malaysia trình bày rất đáng để Việt Nam học hỏi. Kinh nghiệm của Indonesia, của Hàn Quốc và các nước khác cũng như đề xuất của các chuyên gia tại Diễn đàn có nhiều nội dung hữu ích. Những khuyến nghị cách thức tiến lên tầm phát triển mới trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế đa dạng mà đại diện OECD trình bày cần được tham khảo, phân tích kỹ, làm đầu vào khi hoạch định chính sách.
Thủ tướng đề nghị Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương lắng nghe những chia sẻ về kinh nghiệm và kiến thức quốc tế, những ý kiến nhận định, đề xuất của các chuyên gia quốc tế và trong nước, để tìm ra những cách làm phù hợp cho Việt Nam, đóng góp trực tiếp cho việc hoàn thiện dự thảo Chiến lược phát triển 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 nhằm hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, đến năm 2030 trở thành nước công nghiệp, thuộc nhóm dẫn đầu các nước có thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo Chinhphu.vn