Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2020)

Chủ tịch Hồ Chí Minh với chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc

.

1. Từ những ngày đầu năm 2020 đến nay, nhân dân cả nước Việt Nam đang đoàn kết thống nhất, chung sức, chung lòng cùng Đảng và Nhà nước “chống giặc và chiến thắng giặc Covid-19”.

Một lần nữa, bạn bè quốc tế có dịp kiểm chứng giá trị của sức mạnh Đại đoàn kết toàn dân tộc - Một quan điểm mang tính chiến lược do Hồ Chí Minh khởi xướng và được Người cùng Đảng rèn luyện thực hiện một cách xuất sắc trong các thời kỳ cách mạng. Quan điểm chiến lược Đại đoàn kết của Hồ Chí Minh để “Tăng cường Đại đoàn kết toàn dân tộc” trong thời kỳ tiếp theo vẫn là một trong các thành tố cơ bản được Đảng ta xác định trong nội dung Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội XIII.

Đối với dân tộc ta, nhân dân ta, đoàn kết là lẽ sinh tồn của dân tộc. Từ xưa đến nay, lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì việc gì khó - thiên tai hay địch họa, dân tộc ta cũng có thể vượt qua. Với Hồ Chí Minh, đoàn kết không chỉ là mục tiêu chiến lược mà còn là yêu cầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng cách mạng lãnh đạo. Người đúc kết, nhờ “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” nên cách mạng Việt Nam đã “Thành công, thành công, đại thành công”.

Để thực hiện được Đại đoàn kết toàn dân tộc, Hồ Chí Minh giải thích rất giản dị và dễ hiểu những nội dung cốt lõi: Một là, mọi con dân nước Việt, không phân biệt đa số hay thiểu số, giàu nghèo, già trẻ, gái trai…, trong đó, liên minh công - nông - trí là nòng cốt; Hai là, để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc cần phải kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc. Trong đó chủ nghĩa yêu nước là mẫu số chung kết dính mọi người dân Việt Nam. Người chỉ rõ: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.

Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.” (1); Ba là, để đoàn kết vững chắc, lâu dài, vừa phải hiểu, tin yêu, kính trọng, học tập, dựa vào dân; vừa khoan hồng đại lượng với những người lầm đường, lạc lối. Người tuyên bố:“Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ thì dù người đó trước đây chống chúng ta bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”(2). Người cũng chỉ rõ, Đại đoàn kết phải được phát triển trong tổ chức, các dân tộc anh em phải trở thành một khối thống nhất do Đảng cách mạng lãnh đạo.

Sự hình thành và việc phát huy tốt vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất ngay từ những ngày đầu cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cho thấy tầm nhìn xa, trông rộng và cách thức, nghệ thuật tập hợp, huy động sức dân của Người và của Đảng ta. Với tình yêu thương con người, Hồ Chí Minh đã dành nhiều tình cảm và đặc biệt quan tâm khích lệ, động viên đồng bào các dân tộc trong cả nước, cùng với đó, với tư cách là người tổ chức, kiến tạo thể chế, Người và Đảng ta đã tạo lập môi trường, điều kiện để phát huy vai trò sức mạnh đó không chỉ trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc mà cả trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong cách mạng giải phóng dân tộc giai đoạn 1930-1975 là những minh chứng hùng hồn.

2. Từ bài học lịch sử, từ yêu cầu về tạo lập động lực để hội nhập phát triển, lúc này mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những đại biểu tham dự đại hội các cấp, cần đào sâu tìm hiểu tư tưởng và cách làm của Bác để suy ngẫm, thiết kế và tổ chức thực hiện thật tốt chính sách Đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn tiếp theo. Theo đó, cần thấu triệt trong nhận thức để tập trung bàn thảo các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, mẫu số chung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh là “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập, tự do là nội dung cơ bản phản ánh quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi quốc gia dân tộc, của mỗi cá nhân, thành viên trong dân tộc đó. Trong đó, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi con người. Song, con người không bao giờ là một chủ thể tách biệt xã hội, con người luôn là con người xã hội và sống trong lòng mỗi quốc gia dân tộc cụ thể. Vì lẽ đó, quyền của con người luôn gắn liền với quyền của quốc gia, dân tộc.

Con người chỉ có thể mưu cầu hạnh phúc cho chính mình, được sống và được tôn trọng phẩm giá khi quốc gia dân tộc độc lập, tự do. Như vậy, mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã phản ánh được lợi ích căn bản của các cộng đồng cư dân Việt Nam, đó là chất keo để quy tụ sức mạnh toàn dân tộc. Vì thế, giải pháp có tính nền móng để đoàn kết toàn dân ở mọi cấp độ có thể quy về kiến tạo môi trường thể chế để huy động nguồn lực trong mọi dân tộc, mọi tầng lớp dân cư, mọi người dân có khát vọng làm giàu, có cơ hội làm giàu. Và, trên nền đó để bảo đảm an ninh cho mỗi con người, mỗi cộng đồng người. Trọng trách này, trước hết thuộc về Đảng, sau nữa là của chính quyền ở mọi cấp độ.

Thứ hai, “Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì” và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Vì thế, mọi đường lối chủ trương của Đảng, của chính quyền các cấp hiện nay phải phản ánh được tâm tư nguyện vọng và lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân, chính quyền phải thật sự gần dân, trọng dân, và phấn đấu cho quyền lợi của nhân dân. “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”. Ngay cả khi biết mình đã không còn được cống hiến cho Tổ quốc, nhân dân lâu hơn nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, trong đó Người dặn dò toàn Đảng, toàn dân phải không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Người viết:“Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” (3). Nếu mỗi cán bộ, Đảng viên lúc này tâm niệm và cố gắng làm được một phần như Bác, chắc chắn Đại đoàn kết toàn dân sẽ có lực hấp dẫn đủ lớn để ngăn chặn mọi âm mưu, thủ đoạn của thế lực xấu.

Thứ ba, tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân góp phần không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự đồng thuận xã hội. Phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể trong hoạt động của mình cũng góp phần quan trọng vào đoàn kết các tầng lớp nhân dân, huy động sức mạnh toàn dân để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế- xã hội, giữ vững ổn định chính trị.

Thông qua hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng sẽ làm cho quan hệ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân càng thêm gắn bó. Dân thêm tin Đảng, hiểu được những chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế-xã hội là nhằm mục đích nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, sớm thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc. Vấn đề đặt ra lúc này không chỉ là nhận thức đúng đắn hơn nữa vai trò của Mặt trận.

Từ đó, thiết kế nội dung, đổi mới tổ chức tinh gọn, hiệu quả, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng sao cho mọi người dân đều có thể tiếp nhận và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; kắc phục hình thức, hành chính hóa; đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng theo hướng sát dân, hiểu dân, hiểu nhu cầu chính đáng của nhân dân... và nâng cao tỷ lệ tập hợp quần chúng nhân dân vào tổ chức; phát huy các hình thức tự quản của cộng đồng dân cư, coi trọng vai trò những người có uy tín ở cộng đồng trong công tác vận động  quần chúng. 

PGS.TS Hồ Tấn Sáng

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.38
(2) Hồ Chí Minh, sđd, 2011, t9, tr.69
(3) Hồ Chí Minh, Sđd, 1996, t12, tr 512

;
;
.
.
.
.
.