.

Khai khoa Tiến sĩ lục tỉnh

.

Rất nhiều sĩ tử Quảng Nam đã đi vào danh sách khoa bảng qua hơn 100 năm (từ 1807 đến 1919) nhà Nguyễn mở khoa thi Hán học để kén chọn nhân tài, làm nức tiếng một vùng địa linh nhân kiệt. Riêng với học vị tiến sĩ, mãi đến khoa thi Hội năm Mậu Tuất 1838, vùng đất 6 tỉnh trải dài từ Quảng Nam vào đến Ninh Thuận mới có người đỗ đầu tiên: Lê Thiện Trị.

Thương dân, trở thành thứ dân

Câu đối xưa của ông Lê Thiện Trị vẫn còn ghi ở cổng chùa Long Phước. (Ảnh: V.T.L)

Lê Thiện Trị (1769-1872) quê xã Long Phước, huyện Duy Xuyên, phủ Điện Bàn; nay thuộc thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Cha ông là cụ Lê Thiện Quang, tú tài Hán học, làm Tri huyện Hòa Vang được 11 năm, sau đó về hưu dạy học, làm nghề bốc thuốc. Thuở nhỏ ông có tên là Lê Thiện Minh, sau đổi thành Lê Thiện Chánh, đến năm 15 tuổi cụ cố lại cho đổi thành Lê Thiện Trị. Cha ông bảo rằng, đổi tên nhiều lần như thế là để sáng tỏ tư tưởng dòng họ mình là “Quang Minh Chánh Đại” và phải lấy đức thiện mà sống ở đời.

Với tư chất thông minh và hiếu học, thuở nhỏ ông học thân phụ, sau mới đến học ở trường. Năm 17 tuổi, đi thi lần đầu đỗ tú tài, từ đó cứ 3 năm một lần ông đều lều chõng đi thi nhưng cũng vẫn chỉ đỗ tú tài. Ông không nản chí, quyết tâm học tập, rèn luyện, nên sức học ngày càng tăng tiến. Do đỗ mấy khóa tú tài, lại là con tri huyện nên ông được đặc cách thu nhận vào Quốc tử giám và cũng do chân giám sinh nên ông được tham dự và đỗ tiến sĩ khoa thi Hội năm 1838.

Trong thời gian gần 15 năm, bước hoạn đồ của ông tưởng chừng như thuận buồm xuôi gió. Không ngờ, khi đương chức Tuần vũ Thuận Khánh, với bản tính không xu nịnh, không bè cánh, thẳng thắn thương dân lành, ông chỉ ứng chi sai nguyên tắc một số tiền công khố, gặp kiểm tra nên lãnh tội trở thành thứ dân (lạc hồi dân tịch). Do bị mất chức chứ không bị tịch biên gia sản và không mất học vị, nên tên và học vị của ông vẫn còn chép ở khoa bảng lục và bia Tiến sĩ ở Huế.

Trở thành thứ dân, ông về quê sống cảnh điền viên, đọc sách ngâm thơ và dạy bảo con cháu. 10 năm sau, triều đình khôi phục lại chức Hàn lâm biên tu và mời ra làm quan trở lại, nhưng ông lấy cớ bệnh tật, từ chối.

Hiếu học, lưu danh đất học

Nhằm dấy lên truyền thống văn hóa, hiếu học, ông đứng ra vận động xây dựng Văn thánh huyện Duy Xuyên trên một khuôn viên rộng 8 sào để thờ Khổng Tử và các bậc đại nho. Cứ 3 năm một kỳ đại tế vào 16-2 âm lịch, không chỉ các văn nhân khoa bảng trong huyện mà các quan đương chức ở tỉnh và các phủ huyện đều về dự đông đủ.

Có lẽ đương thời cả Quảng Nam, ngoài huyện Điện Bàn có Văn thánh kết hợp thì huyện Duy Xuyên mới có cơ ngơi này. Từ đó, một số xã trong và ngoài huyện hưởng ứng làm theo, xây dựng Văn chỉ, lập hội tự văn, tự võ học theo nghi thức Văn thánh, hàng năm tế lễ long trọng. Mấy chục năm sau khi ông mất, đến mỗi kỳ tế Văn thánh, các vị đương khoa, đương quan đều nhắc đến người khai khoa tiến sĩ cho cả 6 tỉnh và sáng lập ra Văn thánh. Chính đức của ông, dù khi ông đã trở thành thứ dân, vẫn được mọi người tôn sùng, kính nể.

12 năm sau khi ông mất, phong trào Nghĩa hội Quảng Nam phát triển rầm rộ, con cháu ông nhiều người tham gia, riêng người con thứ 3 lập nhiều công trạng, được vua Hàm Nghi châu phê “Phụ từ tử hiếu” cho khai phục truy phong chức chủ sự (hàm lục phẩm).

Theo gia phả của tộc Lê Thiện thì ông sáng tác khá nhiều thơ văn, song đến nay đã bị thất lạc. Về liễn đối, ngoài công trình Văn thánh đã hư hoại, đến nay chỉ còn một số câu đối của ông làm liễn ở chùa Long Phước. Câu đối ở cổng chùa: “Long can nhật ấm bồ đề thọ/ Phước lý xuân nồng bát nhã hoa”. Tạm dịch: Gò rồng ngày tỏa bóng bồ đề/ Đất phước xuân nồng hoa bát nhã. Câu đối trong cột chùa: “Mộ cổ thần chung cảnh tỉnh ái hà danh lợi khách/ Kinh thanh kệ hướng hoán hồi khổ hải mộng mê nhân”. Tạm dịch: Chuông sớm trống chiều cảnh tỉnh đắm say phường danh lợi/ Lời kinh tiếng kệ đổi thay phiền não kẻ mộng mê.

Ông là một nhà nho mẫu mực, yêu nước, thương dân. Gần 15 năm hoạn lộ trải qua 13 chức vụ, ở cương vị nào ông cũng hoàn thành tốt chức trách, thể hiện tài năng đức độ của một vị quan liêm minh, do vậy mà ông được thăng tiến liên tục từ hàm chánh thất phẩm lên đến tòng nhị phẩm. Nhân kỷ niệm 240 năm ngày sinh của ông - vị Khai khoa tiến sĩ lục tỉnh, xin dâng một nén tâm hương kính cẩn tưởng nhớ công đức người xưa…

NGUYỄN THỊ TUYẾT

 

;
.
.
.
.
.