Năm ấy anh hai mươi bốn, cả nhà đã đặt tiệc cưới ở một nhà hàng sang trọng. Trước một ngày, anh tẩu thoát khỏi cô dâu trẻ và những bộ áo quần dành cho đại lễ, gõ cửa căn hộ của chị với một câu hỏi quyết liệt. Khi chị hét lên "Không!" anh quay đi và mười lăm phút sau quay lại với cái đầu trọc tếu, như muốn nói rằng, dù chị trả lời thế nào đi nữa thì anh cũng không bao giờ mặc cái bộ veste mới cứng dành cho chú rể. Chị òa lên khóc rồi sau đó lau nước mắt, chấp nhận biến mình thành tấm bia chịu đạn.
. |
Thực ra không phải thế. Trong con mắt của những người chung quanh, anh thường bị xem là kỳ quặc, bởi nơi tâm trí anh hầu như không có dấu tích của những hệ đánh giá định sẵn. Vì không bị cản trở bởi cái ấn tượng chung chung: đàn ông phải lớn lao hơn đàn bà về mọi mặt, anh không bị hàng rào tuổi tác ngăn cản và dễ dàng cảm nhận sự hấp dẫn nữ tính của phụ nữ hơn những người đàn ông khác. Lúc ấy, chị vừa là biên đạo vừa là vai nữ chính của các màn vũ kịch. Suýt nữa thì tai tiếng đã làm chị phải chia tay với Nhà hát, nếu bà Vũ đoàn trưởng không khăng khăng rằng ở đấy chị là người không thể thay thế được.
Anh đến ở hẳn trong căn hộ trên tầng hai một ngày sau lễ Giáng sinh. Ngay hôm sau, anh đã ném những tặng vật của những người đàn ông quen biết chị vào lửa (Chị có một lò sưởi nhỏ kiểu xưa, khi sửa nhà chị đã cố giữ nó lại). Chị phản đối, giận anh mấy hôm liền; nhưng mấy hôm sau, anh đã tặng chị một món quà làm chị vui thích đến nỗi tha thứ cho anh về sự lộng hành đó: Chiều cuối năm dương lịch, khi ra phố mua sắm về, chị ngạc nhiên thấy những bông thạch thảo màu đỏ như một bó lửa cháy rực giữa gian phòng. Chị không tin ở mắt mình vì ngoài màu vàng, tím và trắng, chị chưa hề biết hoa thạch thảo có thêm màu gì khác. Một tặng vật lãng mạn nhất mà anh đem về cho chị sau gần hai mươi cây số xa thành phố, ở một hẻm núi mà nhờ những chuyến lang thang của thời trai trẻ anh đã khám phá ra. Tối hôm đó chị pha hai ly cocktail đỏ, họ chúc nhau năm mới hạnh phúc, lặng lẽ, không một ai chứng kiến.
Và họ đã hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc đầy thương tích, bởi dường như thế giới chung quanh không bao giờ để cho họ yên. Nhưng họ dần quen với những lời đàm tiếu, giống như dân du mục quen với cuộc sống lều trại. Người ta bảo đó là một cuộc tình không có ngày mai. Cả chị cũng thế, ngay từ ngày Tết Dương lịch năm ấy, khi chạm cốc mừng năm mới với anh, chị đã nghĩ: có thể sang năm, khi ngày đầu năm trở lại, thì anh đã ra đi.
Vì sống trong ý nghĩ sẽ sớm chia tay, mỗi ngày tháng hiện tại đối với chị là một ngày kỳ diệu. Tuy vậy, những ám ảnh về tương lai đôi khi không khỏi làm chị buồn rầu, vì vậy, thỉnh thoảng chị rơi vào cực ngược lại, mong cho anh ra đi, để khỏi phải chịu đựng cảm giác của người ở bên bờ vực. Chị dần dần hiểu rằng do tính hay xúc động mà mình đã hành động dại dột, rằng những người đàn bà khôn ngoan chỉ bông đùa với các chàng trai ít tuổi, chứ không gắn bó với họ. Nhưng sau thời gian sống cùng anh, chị dần dần nhận ra tại sao trước đây mình không thể hạnh phúc với những người đàn ông lớn hơn mình: từ trong vô thức hình như chị dị ứng với các biểu hiện của oai quyền, có thể là do những ám ảnh xa xưa về người cha khắt khe và cay nghiệt. Mấy mươi năm sau khi đã sống tự lập, thỉnh thoảng chị vẫn còn mơ thấy mình lên mười, hai đầu gối trần quỳ trên đất, khóc nức nở trong tiếng quát mắng giận dư. Khi tỉnh dậy, chị mừng rỡ vì nhớ ra mình đã lớn.
Mỗi năm, đến ngày Tết Dương lịch, anh lại hái tặng chị một bó thạch thảo lớn màu đỏ thắm. Họ lại uống cocktail dâu, và đến tối sẽ đến câu lạc bộ hội Múa. Họ có cảm giác năm tháng không qua đi: Hoa thạch thảo vẫn nở trong khe núi, đêm đầu năm mới sẽ mãi mãi ngọt ngào. Niềm tin đó quả thật cũng có chút sức mạnh phép lạ:
Nếp nhăn mờ ở cổ chị như dừng lại, không dài thêm, không sâu hơn, dường như sắp biến mất. Khi người ta hạnh phúc, người ta không cảm thấy mình đang trên đường đi đến cõi chết. Về sau, chị hiểu ra tại sao người xưa cho rằng ở trên trời thời gian trôi rất chậm, đến nỗi dưới trần gian đã ba năm thì trên ấy mới có ba ngày. Ý tưởng ấy khiến chị lao vào thiết kế một điệu vũ mới. Ngày đêm, chị vùi đầu vào việc tập luyện và dàn dựng, tin chắc rằng khi xem Tìm lại thiên đường của chị, bà Vũ đoàn trưởng sẽ một lần nữa ôm hôn tác giả chùn chụt và nhắc đi nhắc lại: "Tôi đã bảo mà, chưa hề có ai thay được cô".
Sáu năm trôi qua. Chính chị cũng không ngờ, họ đã sống bên nhau chừng ấy năm, chừng ấy tháng, chừng ấy ngày, và giờ đây đã có thể nói là sẽ sống cùng nhau mãi mãi. Cả hai người đều cảm thấy mối quan hệ này rất dòn và dễ vỡ, nhất là khi phải luôn chịu sự va đập của thế giới quanh mình. Nhưng họ cũng nhận ra: đôi khi những món đồ bằng pha lê, rực rỡ và mong manh như bọt nước, lại có tuổi thọ dài lâu hơn những vật cứng hơn nó rất nhiều, bởi chúng luôn được gượng nhẹ nâng niu.
Ngày vừa tẩu thoát khỏi đám cưới, anh bảo chị: Từ khi bãi bỏ chế độ nô lệ, không có lệ người sở hữu người. Nhưng giờ đây anh bắt đầu nảy sinh ý muốn xác lập quyền sở hữu của anh. Anh không cho chị múa đôi với ai, không muốn chị về trễ nhiều, không muốn chị đi lưu diễn dài ngày. Anh mong ước chị sinh con, có con chị sẽ ngồi lâu hơn trong tổ ấm. Những dự tính của anh làm chị buồn rầu: Chị hàm ơn anh vì anh đã sống bên chị như một nguồn cảm hứng, chứ không phải là một ông chủ. Nhưng ngày gặp chị, anh là một chàng trai hai bốn tuổi, còn nay anh đã là một người đàn ông ở tuổi ba mươi.
Đêm ấy chị không ngủ được. Anh nằm yên, thở đều và mạnh, trán kê vào dưới vai chị. Khi ngủ mặt anh rất đẹp, không có vẻ cau có thấp thoáng của ban ngày. Nhưng chị không nhìn anh, chị ngoảnh mặt về phía cửa sổ, nhìn vầng trăng trơ trọi trên trời. Trăng đang từ tròn chuyển sang khuyết. Chị nghĩ: Vậy là trên thiên đường thời gian không đứng lại.
* * *
Cuối năm ấy, phóng xe về lại khe núi ngày trước, anh ngỡ ngàng. Một con đường thênh thang tráng nhựa chạy dọc sát khe núi: Người ta đã làm đường cao tốc nơi đây, biến một vùng hoang vu thành xa lộ.
Nơi khe núi xưa, dãy quán hàng vừa mọc lên. Một cô bé ngồi nướng mực bên chậu than hồng, mùi thơm của biển lan tỏa trong không gian núi. "Hoa đỏ à, còn nhiều lắm bên kia khe". Cô bé dẫn anh đi, luồn lách theo những đường mòn đầy gai sau dãy đồi. Trên đường về, chợt tiếng sấm ầm ì vang lên trong mây. Anh kêu: "Mưa giông. Kỳ quá ha, sao mùa xuân mà có giông?". Một tiếng sét dữ dội cắt đứt lời cô bé. Cả hai cúi rạp xuống, chạy thi với cơn mưa. Nhưng cuối cùng mưa vẫn bắt kịp. Về đến quán bên đường, họ ướt sũng.
Bà chủ quán cười: "Giông sớm thiệt. Trời đất đảo lộn hết rồi". Cô bé thay áo sau bức màn, nói vọng ra: "Sớm chi nữa?". "Đầu xuân đã có giông, không sớm à?". Tiếng cười dòn tan lẫn trong tiếng áo ướt kéo qua da thịt: "Con đợi giông từ tháng năm tới chừ, trễ quá rồi". Anh cởi áo hơ bên chậu than hồng, tủm tỉm cười vì ý nghĩ ngộ nghĩnh của cô bé. Ừ, nếu đây là cơn giông của mùa hè năm trước thì quả là muộn lắm. Cô bé ngồi trước mặt anh, tóc rối, mảnh dẻ, ướt át. Trong một phút anh liên tưởng đến cô dâu bé bỏng mà anh đã bỏ lại năm xưa trong một cơn đam mê như bão. Ý tưởng của anh nhảy cóc từ kỷ niệm này sang kỷ niệm khác, cuối cùng là kỷ niệm về cái đầu trọc tếu. Anh bật cười. Một kỷ niệm lớn trong đời anh. Mưa đã tạnh, anh vội vã quay về với bó hoa dành cho phút giao thừa.
*
Chị chờ anh trong căn hộ ấm áp; chiếc áo mặc nhà hở vai lấm tấm hoa tím trắng làm chị có vẻ nhẹ nhõm tươi vui, nhưng nơi đáy mắt chị ẩn núp một nỗi hoang mang. Chiều hôm nay, chị đã bị cơn giông trái mùa cầm chân lại trên thềm nhà hát. Ngồi chờ mưa tạnh, bà Vũ đoàn trưởng tâm sự với chị vài nỗi lo âu, rồi cả hai bỗng cao hứng rủ nhau gọi taxi đến thăm một nhà chiêm tinh nổi tiếng mới ghé qua thành phố. Trong không gian âm u của ngôi nhà rường cổ, nhà chiêm tinh nhìn lên khuôn mặt tươi tắn của chị, nói rằng khí sắc của chị đang báo điềm không tốt. "Đâu có!". Chị phản đối. Chị đang cảm thấy rất hạnh phúc, chị làm việc hết sức mình, chị đang yêu và được yêu. Bàn tay gầy khô đưa ngọn nến trên bàn đến sát mặt chị: "Có vết đen mờ hiện ra nơi trán. Những ngôi sao của cô đang bị mây che; nguồn lực của cô đang giảm dần". Chị cười, không mấy tin.
"Một năm sau, tôi sẽ quay lại đây. Khi đó, nếu cô cần tôi giúp...". Ông ta vụt im bặt, những nếp nhăn trên mặt co rúm lại: Đã bảy giờ tối, chị nôn nóng ra về.
Chị trang hoàng lại bàn ăn, treo những chiếc rèm cửa mới, đặt sẵn bộ váy đẹp nhất lên giá áo: Đêm nay, lúc tiếng nhạc Happy New Year vang lên trên đường phố, anh sẽ cùng chị đến Câu lạc bộ hội Múa, như mọi năm. Bỗng nhiên chị hắt hơi dữ dội liền mấy cái. Một linh cảm mơ hồ đè nặng lên tim chị. Nhưng cuối cùng anh đã về, tay ôm bó thạch thảo ướt sũng. Chị cảm động. Dưới ánh nến, những nhánh hoa đọng nước trông rực rỡ hơn bao giờ hết. "T. sợ quá, cứ tưởng loài hoa này đã biến mất. Hóa ra nó vẫn nở đầy trong núi sâu, không bao giờ T. lo phải quên lời hứa". Anh nói, rất chân thành, và chị ôm lấy anh. Anh giữ chị trong vòng tay, bó hoa nằm sau lưng chị, cả hai đứng như vậy rất lâu và chị mong giây phút ấy sẽ kéo dài mãi mãi.
Nhưng một năm sau đó đã trôi qua với âm điệu khác. Bà Vũ đoàn trưởng vẫn tin yêu chị, những vở múa của chị vẫn được tán thưởng. Mối quan hệ với chàng trẻ tuổi lâu ngày đã thành quen trong mắt người chung quanh, không còn là một thách thức với xã hội nữa. Vũ khúc "Tìm lại Thiên đường" mỗi năm vẫn được tái hiện trong những chương trình lớn. Nhưng chị đau lòng, chị vốn nhạy cảm, không chịu nổi khi thấy nhiều học trò bỗng nhìn chị với ánh mắt khác đi. Những cô bé học trò ngày nào lúng túng, vụng về, nay đã trở thành những cô gái sắc sảo và xinh đẹp. Chị hiểu: Chị đã choán chỗ quá lâu, đủ để cản đường họ. "Chưa đến thời của họ đâu".
Lời nói chắc nịch của bà Vũ đoàn trưởng làm chị yên tâm, chị nỗ lực nhiều hơn nữa để chứng minh rằng mình xứng đáng. Càng đắm mình vào công việc, chị càng cần dựa vào anh, như cái cây cần tưới nước để đâm hoa trổ lá. Nhưng anh dường như ngấm ngầm bất mãn: Anh cảm thấy tổn thương, giờ đây anh không muốn ở bên chị như một nguồn cảm hứng, anh muốn làm ông chủ. Năm ấy là một năm đầy day dứt, giống như một ngày xấu trời trong mùa thu đẹp.
Cuối năm chị được mời dự lễ hội nơi một thành phố biển. Chị rủ anh cùng đi, nhưng anh từ chối. Thật ngạc nhiên, vì anh chưa bao giờ từ chối chị điều gì. "Anh chỉ muốn đón Tết Dương lịch như mọi năm". Lâu nay anh chuyển cách xưng hô từ gọi tên sang anh em, chị thấy xưng hô như thế có phần ngược ngạo nhưng cũng chiều anh, như chiều theo sở thích khùng điên của một đứa trẻ.
Ước muốn có một đêm cuối năm mới mẻ với chuyến du lịch nơi xa đã không thành, vậy hãy tìm một cách khác thổi sinh khí vào những thói quen cũ... Ý nghĩ ấy làm chị nhớ tới lời dặn dò của nhà chiêm tinh "Nguồn lực của chị đang giảm dần... Hãy thu lại những điện năng đã mất". Chiều hôm ấy chị một mình đến ngôi nhà rường trong khu thành cổ.
Có tất cả ba gói nhỏ. Một gói bên ngoài ghi chữ "Gối". Gói này sẽ được đặt vào dưới chỗ kê đầu. Một gói ghi chữ "Tắm". Chất bột trong gói sẽ hòa vào nước tắm mỗi ngày của chị. Một gói ghi chữ "Ngải". Gói này sẽ hòa vào ly của anh. Chất bột trắng này sẽ như một cái xiềng êm ái mãi mãi buộc anh vào với chị. Nhà chiêm tinh dặn: "Không ai đủ mạnh để mãi mãi tin ở mình, chỉ có bùa thiêng là vô địch và vĩnh viễn".
Chiều cuối năm không mưa. Chị thay những chiếc vỏ gối mới rồi đi tắm, ngâm mình trong thứ nước thần kỳ. Anh không phải chỉ là tình yêu, anh là sự sống của chị, không có anh, chị sẽ không có những điệu múa, nghĩa là không còn gì hết: vẻ trẻ trung bên ngoài, sự nể nang của đồng nghiệp, lòng tin cậy của bà Vũ đoàn trưởng... Chị muốn làm mọi cách để anh luôn là anh của một mùa đông cách đây bảy năm, chị sẽ có anh không phải chỉ để thương yêu, mà là để sinh tồn. Vì sự khao khát sinh tồn mà chị đã vô tình phản bội lại nguyên tắc của ngày đầu, nguyên tắc của Tự do.
Anh vẫn chưa về. Chị mắc sẵn chiếc áo vũ hội trên vách. Gói bột ngải hòa vào ly nước dâu đỏ óng ánh.
Chị kiên nhẫn chờ, trong khi chiếc đồng hồ "Coucou" treo trên vách cứ vang lên từng tiếng tanh tách, tanh tách phát ra từ chiếc kim giây.
*
Sau này anh nghe những người hàng xóm kể lại: Chị rời căn hộ vào khoảng 6 giờ chiều, tay xách vali, không chào ai cả nhưng đã ghé vào thăm bà bảo vệ nghèo có đứa con đau ốm, cho đứa bé một số tiền, rõ là chị có ý đi xa dài lâu. Đó là chuyện về sau anh mới biết, còn tối hôm ấy, thấy bàn tiệc đã sửa soạn sẵn, anh đoán rằng chị chỉ đi đâu một lát. Anh tự cắm bó hoa thạch thảo đỏ vào chiếc lọ sứ Sèvre trên bàn rồi tìm cốc nước dâu thường lệ, nhưng cái ly lớn trên bàn rỗng không với chút cặn ở đáy ly, hình như có ai đã uống trước.
Anh nhăn mặt, mở tủ lạnh tìm một cốc nước lọc. Trời càng tối anh càng băn khoăn, đây là đêm cuối năm đầu tiên chị bắt anh phải chờ. Cũng như chị, anh muốn thử thổi sinh khí vào những thói quen cũ: Thay vì đến câu lạc bộ như mọi năm, anh định cùng chị dự Giao thừa ở đại sảnh một khách sạn lớn trong thành phố. Người ta đã gửi anh hai vé với lời mời nhiệt tình; vì đã lỡ hứa, giờ đây anh quá nóng lòng, chỉ lo đến trễ.
Mười giờ đêm. Anh nhảy bổ vào phòng tắm để thay áo. Chính lúc đó anh nhìn thấy chiếc áo vũ hội hằng năm của chị, cái dáng vắt vẻo như bị ruồng bỏ của nó khiến anh nhận ngay ra có gì đó bất thường. Anh chạy quanh hỏi những người hàng xóm, biết rằng chị đã ra ga.
Chuyện gì xảy ra vậy? Anh định chạy ra ga, nhưng đúng lúc ấy, chiếc đồng hồ Coucou gõ vang lên. Nửa đêm rồi, năm cũ đã giã từ.
Không còn thời gian nữa. Vội vã lên xe, anh đến khách sạn một mình.
*
Tàu đã rời ga từ lâu. Chị ngồi yên, mắt mở tỉnh táo nhìn ra cửa sổ: những con đường, những ngã tư, những mái nhà. Rồi đồng trống mênh mông và những trụ điện xa xa ven con đường cao tốc chạy song song với đường tàu.
Điện thoại trong túi áo trên ngực chị rung lên.
Tiếng của bà Vũ đoàn trưởng. Cuộc giao lưu đầu năm mang lại nhiều cơ hội cho hoạt động vũ đoàn trong năm tới nên bà không muốn vắng chị. Nghe chị trả lời, bà thét lên: "Tôi đã bảo rồi, vẫn chưa ai thay thế cô được!". Chị cười, nước mắt trào ra. Không, đừng chui đầu xuống cát, đã đến lúc tôi phải đi rồi, và cả bà, bà cũng phải đi rồi. Ngoài kia,dưới ánh trăng non, những nghĩa trang xa thành phố với những nấm mộ không hàng lối lũ lượt trải dài. Ở dưới đó là những con người đã từng không ai thay thế được. Ý nghĩ ấy làm chị mỉm cười lạnh lẽo, quyết định tắt hẳn máy trước khi cho vào túi. Tối nay, khi chờ anh trở về, chị đã lấy chiếc áo dạ hội ra mặc thử và kinh hoàng nhận ra, chị không thể mặc vừa nó nữa! Chất bột trong nước tắm chẳng giúp được gì ngoài việc làm các vòng của chị bung phá nhanh hơn. Trong chốc lát chị nhận ra sự vô vọng: Cầm lấy ly nước dâu, chị chạy ra hiên, tưới nó xuống chậu cây...
Sau này vì đã đi rồi, chị không biết chiều hôm ấy mình đã thoát được một trọng tội. Những dây vạn niên thanh trồng trong chậu chẳng bao lâu đã úa vàng rồi héo khô, rễ chúng đã bị chất bột phù thủy làm cho chết úng giữa mùa xuân.
Giao thừa đêm ấy, anh một mình tiến vào đại sảnh của khách sạn M. Vũ hội đã bắt đầu, những sắc áo lộng lẫy, những bó hoa rực rỡ đó đây, trong đó có rất nhiều thạch thảo đỏ. Từ lúc người ta xẻ đường lấn sát vào chân núi thì thạch thảo đỏ không còn là một phát hiện của riêng anh nữa, nó đã trở thành thời trang mới của những shop hoa trong thành phố. Màu đỏ rực rỡ và tê tái một thoáng làm buốt tim anh. Nhưng đúng lúc đó, một cô gái trẻ từ đám đông bước đến. Cô gái trẻ ở vũ đoàn, người đã gửi cặp vé cho anh tối nay. Cô đã thầm mong anh sẽ đến một mình. Giờ đây sự xuất hiện đơn độc của anh đối với cô thực đầy ý nghĩa, khiến cô xúc động muốn khóc. "Sao anh đến muộn thế, bản Paso khai mạc đã qua rồi. Nhưng không sao, vẫn còn bản Tango và bản Valse, anh sẽ dành cho em nhé?".
Dù còn chìm trong nỗi u sầu, anh vẫn gật đầu, như không thể nào khác.
Vẻ nhiệt thành và thơ ngây của cô, đôi chân búp măng dưới tấm váy giản dị đột ngột làm bừng lên trong anh tiếng sấm, ánh chớp, tiếng vải ướt kéo qua da thịt: Ấn tượng về cơn giông mùa xuân trong thung lũng.
Anh tiến thẳng vào giữa đại sảnh đông người. Giàn nhạc bắt đầu bản Tango. Anh quay lại, đối diện với thiếu nữ.
Lúc ấy anh biết mình đã thực sự ra khỏi huyền thoại của một tuổi thơ nối dài. Một huyền thoại mà nhiều năm sau anh sẽ còn nhớ, nhưng giờ đây không thể không chấm dứt.
Truyện ngắn của TRẦN THÙY MAI