Khải hoàn xin nhớ đến người hôm qua (*)

.

Không phải ngẫu nhiên mà Đại tá - nhà văn Tôn Ái Nhân mượn 2 câu thơ của Hồ Thấu làm “đề từ” ngay đầu tác phẩm Ký ức gã ăn mày: “Chiến trường ai khóc chia phôi/ Khải hoàn ai nhắc đến người hôm qua” trong bài Gửi Khôi Anh Phạm Văn Kỳ. Quê hương Tôn Ái Nhân và người lính Vũ Trung Bống, nhân vật chính của tác phẩm là đất cảng Hải Phòng, địa phương kết nghĩa với thành phố Đà Nẵng; và trận đầu giáp mặt kẻ thù chính là cuộc tấn công vào Đà Nẵng Tết Mậu Thân năm 1968.

Ký ức gã ăn mày được khởi thảo từ năm 2003, khi chiến trường đã im tiếng súng gần ba chục năm. Đó là một thuận lợi vì tác giả được thừa hưởng kinh nghiệm của đồng nghiệp, có độ lùi thời gian để suy ngẫm về cách tái hiện sự thật lịch sử cũng như đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết; nhưng đồng thời đây cũng là thách thức - làm sao tránh được “vết chân” của người đi trước và tạo nên được ấn tượng mới mẻ đối với bạn đọc.

Có lẽ vì thế mà Tôn Ái Nhân đã ôm ấp, thai nghén và “mang nặng đẻ đau” tác phẩm suốt 5 năm trường, qua 6 trại sáng tác của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an từ năm 2003 đến 2008. Và tác giả đã tìm được một cách khai thác đề tài, một góc nhìn khá độc đáo. Nhân vật trong truyện là một người lính rất dũng cảm, lập được nhiều chiến công xuất sắc trên các chiến trường ác liệt nhất, nhiều lần bị thương nặng, thậm chí có lần bị sốt rét ác tính chết đi sống lại, đồng đội đem chôn, bất ngờ sống lại. Rồi khi cả đơn vị bị bom chết hết, còn lại một mình anh… Sau chiến tranh, suốt 30 năm anh bơ vơ đi tìm đồng đội, bị lạc rừng, nhiều chuyện ly kỳ đã diễn ra.

Lúc tìm được về quê thì tên anh đã có ở nghĩa trang, biết bao nhiêu là “cuộc bể dâu”!... Tình cờ, nhờ gặp được Thơ, người đã có với anh một đứa con, anh biết mình đã có cháu nội nhưng cả gia đình đã có một cuộc sống khác hẳn ngày xưa - kẻ ở Hà Nội, người ra nước ngoài… Anh không muốn làm xáo trộn cuộc sống mới của họ, cũng không ham cảnh giàu sang và tình yêu mà Thơ dành cho anh, nên đã giấu mình trong vai “gã ăn mày” để tìm gặp lại gia đình, trong đó có đứa cháu nội Thủy Nguyên của anh… Do hành tung “mờ ám”, “gã ăn mày” đã bị công an bắt. Trước khi trốn thoát, “gã” đã để lại cuốn tự truyện “Ký ức đời tôi”; “gã” không dùng tên thật vì đó là tên một liệt sĩ đã khắc vào bia đá mà lấy tên gọi từ tuổi ấu thơ: Vũ Trung Bống.

Với cách chọn số phận nhân vật chính đầy chất bi kịch của tiểu thuyết, tác giả vừa có thể miêu tả, kể lại những năm tháng chiến tranh ác liệt như là một người trong cuộc, vừa gửi gắm đến người đọc hôm nay và hậu thế lời nhắc nhở, ước nguyện của những người lính đã hy sinh cuộc đời tươi đẹp nhất cho Tổ quốc.

Có thể nói, với sức mạnh của nghệ thuật tiểu thuyết, Tôn Ái Nhân qua tác phẩm này đã biến ký ức hào hùng và đau thương của “gã ăn mày” trở thành ký ức sâu đậm của mỗi bạn đọc đang được hưởng cuộc sống hòa bình hôm nay. Thật khó kể lại - dù là vắn tắt - những ký ức đầy máu và nước mắt, cả vô số điều kỳ lạ đến mức huyền thoại đã được miêu tả qua ngàn trang sách.

Ví như chuyện tiểu đội của Vũ Trung Bống, sau trận tấn công vào Đà Nẵng phải rút vào rừng sâu, lúc đặt bẫy bắt được con kỳ đà, “ai cũng nghĩ đến chốc nữa sẽ được chén những miếng thịt kỳ đà nướng thơm phức, ngon lành, cắn ngập chân răng để thực sự thưởng thức một bữa tiệc thú rừng thỏa thích cho bõ cái bụng lâu nay cứ phải nhai măng đắng suốt, xót như bào cả gan ruột”, thì không ngờ khi mổ cái bụng to kềnh của nó có một bàn tay người! Thấy bàn tay có đeo nhẫn bằng xác máy bay Mỹ, nên tiểu đội đã tổ chức mai táng, bọc vải liệm, bỏ vào túi ni-lông, rồi cho vào một vỏ thùng đạn, dù đó chỉ là chút di hài của một đồng đội “vô danh”. Một đám tang “vô tiền khoáng hậu”, giữa rừng sâu mà vẫn có nhạc “Hồn tử sĩ” bi hùng từ tiếng sáo của “nhạc sĩ” tiểu đội Đoàn Quý La thống thiết cất lên lay động cả đại ngàn hoang vắng.

Mấy chương cuối tác phẩm miêu tả hành trình người lính lạc rừng trở lại đời sống hòa bình, tuy số trang không nhiều, nhưng với cái nhìn ngơ ngác của một người bị xa cách đồng loại và thời cuộc quá lâu, tác giả không chỉ làm nổi bật sự đổi mới và phát triển của đất nước sau chiến tranh mà còn cho thấy mặt trái của cuộc tranh đua làm giàu bất chấp đạo lý cùng những di họa hậu chiến. Sự tương phản giữa đứa con của Thơ bị nhốt trong cũi do nhiễm chất độc da cam của người bố là liệt sĩ, bên cạnh cuộc sống trong nhung lụa của Thơ nhờ buôn bán đủ thứ khiến lương tâm con người nhức nhối…

Trong bối cảnh đó, hình ảnh Bống, khi được ông Phước - một cựu chiến binh vào rừng làm ăn bắt gặp, đưa về Đà Nẵng tìm thăm gia đình các ân nhân từng cứu giúp anh những lúc nguy khốn là biểu tượng đẹp đẽ truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. “…Trở về Đà Nẵng, cái gì tôi cũng thấy lạ. Hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, cứ rối bời, khiến cái gì tôi cũng phải hỏi. May là có ông Phước giúp tôi… Đến Căn cứ Lõm, đi mấy vòng liền mà tôi không thể nhận ra đâu là bụi tre có hầm mà ông Quận ủy Nguyễn Văn Thông đã sẵn sàng xả thân mình để cứu một anh lính binh nhì như tôi…”.

Dù vậy, cả hai vẫn thắp hương vái vọng hương hồn người liệt sĩ, rồi tìm lên nghĩa trang, hy vọng sẽ có mộ ông Thông, nhưng nào có thấy. Ông Phước bảo: “Quê tôi có nhiều chiến sĩ dũng cảm anh hùng lắm. Những liệt sĩ như ông Thông không phải ít đâu…”.

Cuộc chiến đấu để đi tới ngày thống nhất đất nước đã qua 45 năm. Không phải ai cũng trân trọng những ký ức anh hùng như hai vị cựu binh lần đầu gặp mặt đã hết lòng giúp nhau. Vì thế, giữa thế cuộc biến động khó lường hôm nay, khi con người luôn đứng trước những thử thách và cạm bẫy có thể làm băng hoại thành quả rèn luyện, phấn đấu của cả cuộc đời, xin được “cải biên” chút ít di bút của nhà thơ Hồ Thấu:“Khải hoàn xin nhớ đến người hôm qua”.

NGUYỄN KHẮC PHÊ

(*) Đọc “Ký ức gã ăn mày”, tiểu thuyết 2 tập của Tôn Ái Nhân, NXB Văn học, 2018.

;
;
.
.
.
.
.