Cái giá phải trả cho hành vi lừa đảo

.

Hoàn cảnh gia đình không thuộc dạng khó khăn, được học hành đàng hoàng, thế nhưng vì tham lam, lười lao động mà B.T.T.T (SN 1972, trú phường An Hải Đông, quận Sơn Trà) vướng vòng lao lý. Mức án chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà T. phải chịu là cái giá thích đáng cho hành vi lừa đảo, chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng của người khác để phục vụ nhu cầu cá nhân.

Bị cáo B.T.T.T tại phiên tòa ngày 17-5. Ảnh: THIÊN DUYÊN
Bị cáo B.T.T.T tại phiên tòa ngày 17-5. Ảnh: THIÊN DUYÊN

B.T.T.T sinh ra trong gia đình có 4 anh chị em, cuộc sống tuy không khá giả nhưng cũng không thuộc dạng khó khăn. Dù được cha mẹ cho ăn học đàng hoàng nhưng khi vừa học xong lớp 12, T. quyết định thôi học để đi làm kiếm tiền. Tuy nhiên, do bản tính lười lao động, không tự giác phấn đấu nên cô vẫn mãi không có việc làm ổn định. Cũng trong thời gian này, T. trở thành mẹ đơn thân.

Một mình nuôi con, lại không có công việc ổn định nên cuộc sống của T. ngày càng chông chênh, khó khăn chồng chất. Sợ điều tiếng dị nghị, T. từng bỏ nhà đi vào Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống, cốt để làm lại cuộc đời nhưng vì thu nhập không ổn định nên cô đành quay về Đà Nẵng nhờ cậy gia đình. Sau đó, T. tiếp tục có quan hệ tình cảm với N.V.A (phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn), rồi bỏ mặc con cái, gia đình đi ở chung với người đàn ông trên tại một khách sạn trên địa bàn quận Thanh Khê. Ở hàng năm trời tại khách sạn, không có tiền trang trải chi phí nên T. dần trở thành một người lừa đảo chuyên nghiệp.

Trong vụ án này, nhiều người ngỡ ngàng với số tiền mà T. lừa đảo, chiếm đoạt trong gần 2 năm lên tới gần 32 tỷ đồng. Cụ thể, từ tháng 8-2017 đến 7-2019, B.T.T.T nhiều lần đưa những thông tin gian dối trong việc kinh doanh để lừa đảo, chiếm đoạt của chị N.T.K.H và N.T.T.S số tiền 31 tỷ 850 triệu đồng. Trong đó, riêng chị N.T.K.H - chủ khách sạn nơi T. và N.V.A đang sống đã bị lừa số tiền 31 tỷ đồng.

Bằng thủ đoạn tinh vi như dùng những hình ảnh, nhờ người gọi điện khẳng định mình là doanh nhân kinh doanh vải vóc số lượng lớn, T. nhiều lần vay mượn tiền từ các bị hại rồi chiếm đoạt để tiêu xài cá nhân. Để không bị phát hiện, T. trích hơn 5 tỷ đồng trong tổng số tiền lừa đảo để trả nợ, lãi cho các bị hại nhằm gây dựng, củng cố lòng tin từ họ. Đến khi, số tiền hơn 26 tỷ bị T. cùng tình nhân tiêu xài phung phí hết, không còn khả năng trả nợ, bị các bị hại làm đơn tố cáo thì T. bỏ trốn nên bị Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an thành phố truy nã đặc biệt trên toàn quốc.

Mặt khác, các bị hại thừa nhận, do tin tưởng nhân thân, lý lịch mà T. vẽ ra nên đồng ý cho mượn tiền để kiếm lời. Các thủ đoạn mà T. sử dụng quá tinh vi, xảo quyệt nên các bị hại mới không chút nghi ngờ giao tiền cho kẻ ác. Đến nay, số tiền hàng chục tỷ đồng đang đứng trước nguy cơ cao bị mất trắng, các bị hại, đặc biệt là chị N.T.K.H mất hơn 26 tỷ đồng không khỏi bức xúc và tuyệt vọng.

“Bây giờ “tỉnh” lại tôi mới hình dung được sự việc, lỗi một phần do tôi quá chủ quan, tin người nên mới bị cô ta lừa đảo. Tôi mong cơ quan chức năng tiếp tục mở rộng điều tra, làm rõ số tài sản T. đã tẩu tán để lấy lại công lý giúp các bị hại. Đồng thời, hy vọng mọi người hãy cảnh giác trước những thủ đoạn ngày càng tinh vi, chuyên nghiệp của kẻ lừa đảo, để không ai phải đứng ở hoàn cảnh giống như tôi hiện nay”, chị H. bùi ngùi chia sẻ.

Bằng những chứng cứ đầy đủ cơ sở, B.T.T.T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, bị cáo nói rằng hiện bản thân không có khả năng để khắc phục hậu quả. Khi bị Hội đồng xét xử (HĐXX) tra khảo về các đồng phạm, T. phủ nhận hoàn toàn và nói do một mình bản thân gây ra. Anh N.V.A cũng khẳng định mình không liên quan đến hành vi phạm tội của T. Với hành vi phạm tội gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng và sự ngoan cố, không ăn năn hối cải của bị cáo, HĐXX Tòa án nhân dân thành phố quyết định tuyên phạt B.T.T.T mức án cao nhất - tù chung thân theo Khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Với mức án trên, người có tội đã nhận bản án tương xứng với hành vi vi phạm pháp luật mà mình gây ra. Tuy nhiên, sau bản án ấy, nhìn lại người con gái của T., sinh ra đã không may mắn có cha nuôi dạy, lớn lên cũng không còn mẹ ở bên chăm sóc, giáo dục.

Tòa chất vấn: “Khát vọng làm giàu là chính đáng nhưng lựa chọn cách thức lừa đảo để kiếm tiền như bị cáo là sai trái. Bị cáo có con, còn mẹ già, tại sao lại nỡ bỏ mặc họ để chạy theo phù phiếm, để rồi dại dột thực hiện hành vi phạm tội?". Có lẽ không bản án nào tương xứng với những nỗi khổ mà T. gây ra cho người thân và các bị hại. Chỉ có bản án lương tâm đeo đuổi, dằn vặt T. trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.

THIÊN DUYÊN

;
;
.
.
.
.
.