.

Trung Quốc học ở Việt Nam

.

Hàng nghìn năm chung đụng với nền văn hóa Trung Hoa, cha ông ta quả có chịu ảnh hưởng nhiều, thậm chí rất nhiều, nhưng rút cuộc, hiểu nền văn hóa đó một cách sâu sắc, toàn diện và hệ thống thì khó có thể khẳng định.

Kỳ 2: Trông người, mà ngẫm...

Hai cộng đồng luôn đòi hỏi tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau

Bộ phận “ưu tú” hơn cả trong giới nhà nho đương nhiên theo truyền thống hình dung phải là các bậc đại khoa, nhưng giữa ba nghìn tên tuổi đỗ đại khoa còn lưu lại trong sử sách hay trên bảng vàng bia đá, thật khó đếm số học giả nổi trội đủ mươi đầu ngón tay. Dĩ nhiên, hoàn toàn có thể nói thêm rằng không chỉ có các bậc đại khoa mới trở nên học giả tầm cỡ, nhưng đã vậy, lại phải nói thêm nữa rằng những trường hợp như thế chắc chắn là những ngoại lệ.

Thứ kiến thức xuất phát từ nền văn hóa, học thuật Trung Hoa mà nhà nho Việt Nam biết nhiều nhất trước kia là văn và sử. Tụng Bắc sử để quyết khoa đó đã là “học bệnh” của cả nghìn năm. Nhưng có thực nhà nho ta có ai đó đã kịp đọc đủ, dù chỉ một lần, những pho sử chính thức của các sử gia Trung Quốc, thứ được biên soạn lần hồi trong khoảng 2.500 năm? Tôi không tin như thế. Ngay bộ sử nổi tiếng nhất – Sử ký Tư Mã Thiên – thì cũng chỉ thấy nhà nho ta “nằm lòng” những phần “Bản kỷ”, “Thế gia”, một phần “Liệt truyện”, còn phần “Thư” và “Biểu” thì thấy rất ít người nhắc tới. Học vấn của nhà nho Việt Nam về “Trung Quốc học” lại chỉ thiên mạnh mẽ về thời cổ đại.

 Có thể nói cho tới tận thế kỷ XVIII rất ít nhà nho Việt Nam có điều kiện và chịu khó “cập nhật thông tin” về nền học thuật Trung Quốc từ đời Tống trở đi. Thứ nhà nho biết nhiều và có thể kèm cả sự say mê là văn chương, nhưng trong số những tác giả được xếp vào danh sách bát đại gia Đường - Tống, thì người được biết tới nhiều nhất có lẽ chỉ là Tô Đông Pha, thứ đến là Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên và Âu Dương Tu được đề cập thưa thớt hơn, Vương An Thạch có lẽ vì vừa là lãnh tụ phái Tân đảng vừa là người chủ trương xâm lược Việt Nam nên ít được nhắc tới, còn cơ hồ không có tác giả nào của Việt Nam từng “cố công tìm hiểu” về Tô Tuân, Tô Triệt và Tăng Củng.

Rất hiếm văn nhân người Việt trước đây có được một sự hiểu biết tương đối toàn diện về những thành tựu đỉnh cao của nền văn học Trung Quốc sau đời Đường. Bằng chứng là không thấy ai tỏ ra “lão luyện” về Tống từ, Nguyên khúc hay Minh - Thanh tiểu thuyết, mặc dù những loại sách vở ấy vẫn được các thương nhân Hoa kiều “bằng con đường tiểu ngạch” đưa vào Việt Nam.

Trong tâm trạng bốc đồng vừa có sắc thái tự hào dân tộc chủ nghĩa pha màu tuyên huấn, vừa ẩn giấu cả mặc cảm tự ti, thi thoảng có những người Việt lớn tiếng khẳng định rằng một số nhân vật xuất sắc nào đó của giới trí thức nho gia Việt Nam từng đỗ “lưỡng quốc tiến sĩ”, thậm chí “lưỡng quốc trạng nguyên”. Với tất cả sự chú mục tìm hiểu, cá nhân tôi không khẳng định có ai đó từng là như thế. Có chăng, đó chỉ là những nhân vật hư cấu trong truyện Nôm bình dân.

Các chính thể chuyên chế ở Trung Quốc xưa (và cả nay) có chủ trương nhất quán kìm hãm sự trưởng thành đích thực của trí tuệ người Việt, áp dụng một đường lối: Nặng, thì diệt chủng văn hóa Việt, nhẹ thì  ngăn cấm người Việt đạt tới một nền học vấn tiên tiến so với mặt bằng khu vực. Những “đặc chiếu” của Minh Thành Tổ về cách thức ứng xử với tất cả những gì là di sản văn hóa của chính người Việt và sự kiện quan lại Trung Quốc thu giữ tất cả những sách vở có nội dung ít nhiều rộng hơn tri thức khoa cử mà Lê Quý Đôn đã tự bỏ tiền riêng ra mua khi về qua cửa khẩu trong chuyến đi sứ của ông vào năm 1762 chỉ là những ví dụ nổi bật.

Chủ trương “giáo hóa Nam nhân” của Trung Quốc chỉ được khuôn định trong khung khổ cho người Việt biết được và học theo, làm theo những gì họ muốn nhìn thấy ở “giống dân” ấy.

Triều Nguyễn trên thực tế đã tạo được ít nhiều sự thay đổi có tính đột xuất và chủ động hơn các triều đại trước họ đối với lĩnh vực “Trung Quốc học”. Có thể nói vắn tắt rằng, cho tới tận thời điểm trở thành thuộc địa của thực dân Pháp, những cố gắng đó của vua tôi nhà Nguyễn vẫn chưa thể đạt tới tầm mức tạo ra được một quán tính và vectơ chuyển động theo hướng khác.

Trên dưới một thế kỷ kể từ sau hàng ước Giáp Thân, nền văn hóa nói chung và nền học vấn nói riêng ở Việt Nam bị được “bẻ lái” theo đường hướng khác, thoát dần khỏi quỹ đạo khu vực truyền thống. Bản thân nền văn hóa và nền học vấn ở Trung Quốc cũng từng bước trở nên khác trước, dù muốn dù không cũng buộc phải tuân theo quỹ đạo hiện đại hóa và hiện đại. Nhưng định mệnh lịch sử, ít nhất là cả trên hai bình diện địa văn hóa lẫn địa chính trị, đã khiến cho hai quốc gia, hai dân tộc, hai cộng đồng cư dân vẫn duy trì những “hằng số của những quan hệ, những tính quy định”. Vậy mà, bất chấp tầm quan trọng của những mối quan hệ đa chiều và phức tạp giữa hai quốc gia, hai cộng đồng vẫn cứ đòi hỏi thậm chí đòi hỏi tăng cường mạnh mẽ hơn nữa sự hiểu biết lẫn nhau, Trung Quốc học ở Việt Nam tới thời điểm này có thể nói vừa thiếu vừa yếu, nghiêm trọng tới mức “không tin được dù đó là sự thật”.

Trung Quốc học, nhìn từ Nga và Pháp

Trong khung khổ của bài viết này tôi chỉ muốn nhắc tới nền Trung Quốc học ở hai quốc gia mà tôi biết tương đối rõ, đó là Trung Quốc học ở Nga và Trung Quốc học ở Pháp. Với mỗi nền Trung Quốc học ở mỗi quốc gia ấy, cũng chỉ có thể lấy một trường hợp tương đối điển hình để “nêu ví dụ”.

Có thể nói rằng ngay từ thời Sa hoàng, ngành Đông phương học nói chung và chuyên ngành Trung Quốc học nói riêng đã sớm được thiết kế như một lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu trong những hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội Nga.

Đến thời Liên bang Xô Viết, ngành Đông phương học của quốc gia này mà bộ phận ưu tiên là Trung Quốc học đã thu hút vào bản thân nó những trí tuệ kiệt xuất bậc nhất của giới khoa học xã hội và nhân văn, dù là đảng viên hay không phải là đảng viên cộng sản. Với định hướng chiến lược tư duy toàn cầu, đặt ra là giải quyết những vấn đề chung nhất của toàn thế giới và toàn bộ lịch sử nhân loại, cùng với nỗ lực giữ vững địa vị “thành trì của phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cộng sản quốc tế”, vừa phải giúp đỡ toàn diện để làm hình thành nên một quốc gia “Trung Hoa đỏ”, vừa phải kiềm chế nó (và đã không thành công) sao cho “người khổng lồ mới” này không trở thành chủ thể mới tranh đoạt quyền lãnh đạo cả phe xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới, nhà nước Liên Xô quả đã không tiếc sức người sức của đầu tư cho một chuyên ngành Trung Quốc học trở nên thực sự là ngành mũi nhọn. Một tư tưởng có tầm quan trọng hàng đầu, tiên quyết những thành tựu của giới Trung Quốc học Nga nói riêng, Liên Xô nói chung là tư tưởng đòi hỏi giới khoa học này phải nghiên cứu “thế giới Trung Hoa” như một đối tượng của khoa học tự nhiên, nghĩa là như nó vốn và đang tồn tại chứ không như người Liên Xô mong muốn nó tồn tại. Chính nhờ vào sự định hướng chủ đạo như thế mà giới Trung Quốc học Nga cả một thời gian rất dài về cơ bản là thoát khỏi sự ám ảnh của vòng kim cô “lập trường chính trị” ngắn hạn nên thiển cận.

Trong khoảng thời gian trên dưới một thế kỷ, chuyên ngành Trung Quốc học ở Nga thực sự đã ở vào vị trí hàng đầu trong toàn cảnh ngành Trung Quốc học thế giới, với hàng loạt những tên tuổi xứng tầm quốc tế: Alêxeev Vaxili Mikhailôvich (1881-1951), Vaxiliev Vaxili Pavlôvich (1818-1900), Marr Nikolai Iakovlevich (1864-1934), Olđelburg Xergei Phêđôrôvich (1863-1934), Konrad Nikôlai Iôxivphôvich (1891-1970), Sherbatxkôi Phêđor Ippolitôvich (1866-1942), Shuski Iulian Konxtantinôvich (1897-1946), Baxiliev Boris Alekxanđrôvich (1899-1946) cùng rất nhiều tên tuổi lớn khác. Một trong những tên tuổi lớn của giới Đông phương học Nga vừa qua đời gần đây là Riphtin Bôris Lvôvich.

Trong khi đó, giới Trung Quốc học Pháp từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX đã giành được sự kính trọng của các nhà Đông phương học thế giới, kể cả của các học giả lớn người Trung Quốc. Hậu duệ tinh thần của những nhà thông thái đó là cả một đội ngũ đông đảo vẫn tiếp tục được bổ sung không dứt tới nay. Tôi muốn đề cập tới một trong những khuôn mặt sáng giá bậc nhất hiện nay trong số họ: Giáo sư Frencois Julien, nhà triết học đương đại, người đã công bố hàng vài chục chuyên luận về triết học, mỹ học và tư tưởng Trung Quốc trong hơn ba mươi năm gần đây. Ở Việt Nam, liên tiếp trong khoảng mười năm lại nay, đã có ngót một chục công trình của tác giả này được dịch và xuất bản, điều đó đã biến ông thành “nhà triết học được đọc nhiều nhất ở Việt Nam sau các nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx” như trong lời giới thiệu một công trình của ông đã thông tin. Nói vắn tắt, cá nhân tôi, tiếp xúc với những công trình của nhà Trung Quốc học này, hầu như bao giờ cũng vừa đọc vừa giật mình thon thót.

Điều mà tôi tự nhủ, nhân dịp này xin nói ra lời, rằng sao một cộng đồng, một quốc gia có số phận lịch sử chằng buộc với Trung Quốc tự nghìn xưa và còn sẽ phải bị/được chằng buộc như Việt Nam, mà lại tự mình chấp nhận giới hạn sự hiểu biết của mình về người láng giềng khổng lồ “nông nổi” đến mức ấy? Chưa nói rằng, liên miên trong lịch sử còn thêm tình trạng “kẻ biết thì không làm mà kẻ làm thì không biết” diễn ra không phải là thi thoảng cho lắm!

 PGS.TS TRẦN NGỌC VƯƠNG

;
.
.
.
.
.