.

Âm vang biển đảo qua cách nhìn Trịnh Công Lộc

.

Bảy năm qua, sự kiện Hoàng Sa - Trường Sa là thời sự nóng. Nóng trên thế giới, nóng trong khu vực, và dĩ nhiên nóng hơn cả - ở quốc nội. Nhất là từ năm 2011.

Nóng từ báo in cho đến các trang mạng. Nóng từ chính trị xã hội cho đến văn học-nghệ thuật. Trong dòng thời sự này, thơ ca là thể loại ngắn, nhanh nhạy nhất của văn học, đã có mặt kịp thời để “phản ánh” hiện thực ấy. Ở đó có chuyến đi thực tế dành cho nhà văn nhà thơ hướng ra biển đảo, có cuộc thi hay phong trào sáng tác thơ về biển đảo, và cái không thể thiếu là: có các trang thơ về biển đảo.

Trịnh Công Lộc trong buổi lễ kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012.
Trịnh Công Lộc trong buổi lễ kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012.

Ở đề tài này, lạ - gây chú ý dư luận không ít lại là nhà thơ [tuổi] đã hưu trí nhưng [tuổi nghề] vẫn còn rất trẻ.  

Làm thơ từ lâu, quá tuổi lục thập, Trịnh Công Lộc mới trình làng tập thơ đầu tay: Cánh buồm nâu, 2011. Một tập thơ đĩnh đạc. Nhưng chỉ khi bài thơ “Mộ gió” đoạt Giải thưởng sáng tác về đề tài biển đảo quê hương năm 2012, tên tuổi anh mới gây sự chú ý đáng kể của dư luận.

Mới nhất, khi “Mộ gió” được đặt làm nền cho hai chùm thơ trên báo Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh trong hai tháng liên tiếp (số 258 ngày 12-6-2013 và số 263 ngày 17-7-2013), ở đó biển đảo quê hương làm nên niềm hứng chủ đạo, âm hưởng của sử thi trong thơ Trịnh Công Lộc mới bộc lộ rõ nét nhất.

Đâu phải bây giờ
                         mới từ biển mà đi
đất nước mấy ngàn,
                         mấy ngàn năm bão tố
biển của ta, lại nhiều hơn sóng dữ
đừng nghĩ ai, bé nhỏ trước muôn trùng…

                                                (Từ biển mà đi)

Sau Trường ca biển của Hữu Thỉnh, “Từ biển mà đi” của Trịnh Công Lộc đang tiếp bước. Hay trước nữa, Tô Thùy Yên - một kỳ nhân của nền thơ Việt - với “Trường Sa hành” truyền thống mà rất hiện đại.

Trường Sa! Trường Sa! Đảo chếnh choáng
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi

Nhớ, “Trường Sa hành” ra mắt công chúng vào tháng 8-1974, đến nay đã qua 40 năm của thời gian với bao biến thiên cuộc thế, đảo lộn cuộc người.

Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người.

Còn Trịnh Công Lộc: “Mỗi đảo nhỏ đã hóa thành ngọn nến/ Thắp linh thiêng rừng rực sao trời” (Từ biển mà đi) hay: “Mỗi đảo nhỏ thành trái tim của biển/ Những trái tim/ Nhịp đập trùng khơi” (Lời của sóng).

40 năm trong lịch sử đất nước, dù không là gì cả giữa dằng dặc lịch sử nhân loại, nhưng cũng đủ đánh dấu mốc quan trọng. Dấu mốc về chuyển hướng tình cảm và trách nhiệm ngày càng sâu, nặng hơn với biển đảo quê hương. “Bia tưởng niệm”, và “Mộ gió” là một cách. “Mộ gió” là mộ tượng trưng theo nghi lễ chiêu hồn những chiến binh thời Nguyễn đi bảo vệ chủ quyền biển, đảo, không trở về.

Mộ gió đây,
                đất thành xương cốt
Cứ gọi lên là rõ hình hài
Mộ gió đây, cát vun thành da thịt
Mịn màng đi, dìu dặt bên trời…

                                            (Mộ gió)

Mộ gió, mộ tượng trưng được gọi một cách tượng trưng, hư mà thực hơn cả thực. Bởi nó gợi mở sự tưởng tượng và liên tưởng. Người chiến sĩ nằm xuống - một hàng tên tuổi mờ không có, năm sinh và ngày mất cũng không. Nó vô danh giữa biển trời mà lay động nơi thẳm sâu lòng người. Nó không là của riêng ai mà là của tất cả mọi người Việt đang sống trên đất nước Việt Nam và cư lưu khắp thế giới. Ở đâu đâu, ta cũng có thể hình dung ra mộ gió, để “tưởng niệm”. Một lần trong đời được đặt chân lên Trường Sa - Hoàng Sa là may mắn lớn, nhưng nếu không thể, ở tận xó xỉnh nào của trái đất, “cứ gọi lên là rõ hình hài”. Hình hài của ngàn ngàn đứa con quê hương ngã xuống trên đảo, trong biển đảo, vì biển đảo, để làm nên hình hài của “mộ gió”.

May mắn hơn nhiều thi sĩ chúng ta, Trịnh Công Lộc - bởi nghề nghiệp của anh - được đi nhiều, trải nghiệm nhiều và biết nhiều. Không bị buộc ràng bởi “định hướng” nào bất kỳ, cũng không nhập vào các chuyến đi mang tính phong trào (dù phong trào không phải không cần thiết), mà với anh - đó là các cuộc đi thực. Nếu hình tượng và hạn từ “mộ gió” được anh vay mượn để phác họa nên hình ảnh của vùng trời biển đảo, thì miền đất biển đảo được ngòi bút anh khắc họa rất sinh động, chỉ qua ba câu thơ:

Gió vắt vai, sóng quanh chân đảo
Như người đi gieo hạt đường khơi
Chi chít mọc, đảo thành rừng của biển

                                  (Đại dương - rừng đảo)

Anh chiêm nghiệm biển đảo - có khi một mình - bằng cảm xúc rất thực. Tự do vẫy vùng giữa cảm xúc bề bộn của mình, sau những chắt lọc, anh khám phá biển đảo với những hình ảnh quen mà lạ:  

Khi lỡ bước tay bám vào sườn đá
Như bám vào vai sóng mà lên.

(Đảo vắng)

Tôi cho đó là thành công của Trịnh Công Lộc qua hai chùm thơ vừa thời sự vừa có tính “vĩnh cửu” này. Xâu chuỗi bài thơ: “Từ biển mà đi”, “Đảo vắng”, “Đá và nước”, “Lời của sóng”... cho đến bài cuối cùng là “Mộ gió” ta có cảm giác như dõi theo bước chân nhà thơ qua từng hòn đảo với cảm xúc riêng. Riêng, nhưng vẫn mang tâm cảm chung của tất cả mọi người.

Mộ gió

Dâng những tiên liệt biển, đảo...
Mộ gió đây,
                đất thành xương cốt
cứ gọi lên là rõ hình hài
Mộ gió đây,
                cát vun thành da thịt
mịn màng đi,
               dìu dặt bên trời…
Mộ gió đây,
                những phút giây biển lặng
gió là tay ôm ấp bến bờ xa
chạm vào gió như chạm vào da thịt
chạm vào...
             nhói buốt Hoàng Sa…
 
Mộ gió đây,
                  giăng từng hàng, từng lớp
vẫn hùng binh giữa biển-đảo xa khơi
Là mộ gió,
              gió thổi hoài, thổi mãi...
thổi bùng lên
                  những ngọn sóng ngang trời!

TRỊNH CÔNG LỘC

INRASARA

;
.
.
.
.
.