Đà Nẵng cuối tuần
Người lính - Tượng đài trong thơ chống Mỹ
Cuộc kháng chiến chống Mỹ dần lui vào lịch sử. Song, những năm tháng hào hùng đó không thể nào quên. Có một pho sử được chép bằng những tác phẩm thơ ca, dài suốt hai mươi năm.
Từ những “Năm xưa ta gửi lá dòng sông/ Giặc sợ những chiếc lá rừng trôi ra biển/ Sợ người biển nhớ rừng” trong Mặc áo rừng dương của Thu Bồn đến những dấu chân nho nhỏ, như những sợi chỉ bền, kéo qua trảng cỏ thời gian, cho người sau biết đường ra chiến trường trong Dấu chân qua trảng cỏ của Thanh Thảo,… rồi:
Ảnh: NGUYỄN XUÂN QUANG |
Trên đường ta đi đánh giặc
Ta về Nam hay ta lên Bắc
Ở đâu cũng gặp
Những ngọn đèn dầu
Chong mắt
Đêm thâu
(Chính Hữu-Ngọn đèn đứng gác)
Trên trái đất này, không một dân tộc nào lại không tha thiết với hòa bình, độc lập. Song, có lẽ, với dân tộc ta, khát vọng ấy cháy bỏng hơn cả. Suốt hành trình giữ nước, không có thời nào thiếu vắng những dũng sĩ cầm thanh gươm nghìn cân ra trận (Chế Lan Viên). Từ xa xưa, cậu bé làng Gióng, mới ba tuổi, nghe tiếng gọi non sông, đã giong ngựa sắt lên đường đánh giặc, đến Nguyễn Trãi mài gươm dưới nguyệt và trong thời đại chúng ta xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước (Tố Hữu). Âm vang trận mạc đã làm nên dòng chủ lưu trong văn học, phản ánh khí thế hào hùng của toàn dân tộc. Thơ chống Mỹ là sự tiếp tuyến chân lý Không có gì quý hơn độc lập, tự do ấy.
Ngày trước, Trần Hưng Đạo cưỡi voi qua Lục đầu giang, gặp con nghê đá trên cột đình làng đang chồm vào năm tháng, ngạo nghễ cười trước thế giặc xâm lăng, thì hôm nay, cũng tại mảnh sân đình:
Con nghê đá làng ta đứng đó
Đổ trận cười vào trống hội tòng quân
(Vũ Ngàn Chi - Con nghê đá và tiếng trống)
Trong không khí những buổi vui sao cả nước lên đường (Chính Hữu), nhiều thế hệ đã ra trận và làm nên chiến thắng. Những năm tháng đó, đất nước ta đã đưa lên rừng mấy chục vạn người con. Những vùng rừng không dân (Phạm Tiến Duật) điệp trùng áo lính:
Đi trong rừng anh nói với em
Nói với những ai mai sau sẽ hỏi
Về những vùng rừng không dân
Nơi bao người đi qua hầu hết tuổi
thanh xuân
Hay:
Hai mươi năm mưa, nắng, đêm, ngày
Hành quân không mỏi
Sung sướng bao nhiêu, tôi là đồng đội
Của những người đi, vô tận, hôm nay…
(Chính Hữu - Đường ra mặt trận)
Từ hiện thực lớn lao đó, thơ chống Mỹ đã dồn tụ cảm hứng, khắc họa nên một tượng đài trong văn học: tượng đài người lính. Những dốc Cổng trời, những đèo chim gãy cánh, những mùa đói đến lá cây rừng cũng cạn..., tất cả đều được diễn tả sâu lắng trong thơ. Những người lính đều hiểu rằng, sau lưng họ là làng quê, phố thị, là chân trời khói ấm, là mùa thu heo may, là người mẹ, người vợ chờ đợi. Đành từ biệt, bởi vì kẻ thù:
Chúng muốn xé bản đồ ta ra làm hai Tổ quốc
Xé thân thể ta thành máu thịt đôi miền
Xé nhân dân ta thành hai dòng trong, đục
Để tâm hồn ta thành khi nhớ khi quên.
(Chế Lan Viên - Đừng quên)
Cuộc chiến đấu lần này dữ dội và khốc liệt gấp bội lần so với thời chín năm chống Pháp. Trong trường ca Ở làng Phước Hậu, Trần Vũ Mai ghi lại nhiều gian khổ của vùng cực nam Trung Bộ, nơi những người lính đói cơm cuốc bộ đêm ròng, sống cảnh nồi sắn sôi và buốt lạnh sau lưng, những mặt người sốt rét nằm lại một nguồn sông, chết trong mùa mưa lũ và hình ảnh đi tìm đồng đội:
Những ai cầm súng đi tìm bè bạn
Đêm cột võng giữa rừng nhấm hạt
muối rang
Các anh trở về vai ướt đầm sương sớm
Lòng nhớ thêm một ngôi mộ bên đường...
Nói như Phạm Tiến Duật là Không thể nói là không đói không sốt, nơi đây Những vùng rừng dài hàng nghìn cây số - Phố không có, xóm làng không có - Lính gặp lính trùng trùng như rừng thẳm - Họ ở với rừng dai dẳng tuần mưa - Sống với rừng cái tuổi say sưa, chấp nhận:
Để lại trong rừng những gì quý nhất
Mất mọi thứ để nhân dân không mất
(Phạm Tiến Duật - Đi trong rừng)
Chất lạc quan tạo nên cái sắc sảo riêng của Phạm Tiến Duật. Bài Nhớ với 4 câu ngắn gọn là một ví dụ:
Cái vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng còn chờ đó, tiếng xe reo...
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng
nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.
Bài thơ viết năm 1969 với một dòng ghi chú ngắn: Lời một chiến sĩ lái xe. Bài thơ đã đem lại nhiều cung bậc của nỗi nhớ. Và, nỗi nhớ từng lúc cồn lên, ẩn đằng sau đó một tấm lòng, một tình yêu. Nằm viện, thế mà, anh bộ đội lái xe vẫn như còn thấy đâu đây những chuyến hàng chờ mình, còn nghe cả những tiếng xe reo, đang vẫy gọi. Những đêm trăng tải hàng vào mặt trận, cái vầng trăng thương mến và quen thuộc, vẫn luôn treo lơ lửng nơi phía trước buồng lái, đang hiện về trong tâm tưởng với nỗi nhớ khôn nguôi khi nhà thơ tạm thời xa trận địa.
Trong bài thơ Vầng trăng và những quầng lửa, tác giả đưa ra hai hình ảnh đối lập: vầng trăng và quầng lửa. Quầng lửa của bom bi nổ trên các đỉnh đồi, làm ngả nghiêng cây cối. Bom nổ, công binh vẫn làm đường, tiếng hát vẫn vang lên. Xe vẫn buông bạt kín, rú ga đi vội. Và, giữa cảnh ấy, một vầng trăng đỏ ối đang lên. Cái vầng trăng yên bình của đất nước, rọi qua những khốc liệt trong một đêm chiến tranh giữa Trường Sơn, làm nên cảm xúc của những câu thơ:
Hun hút đường khuya rì rầm rì rầm
Tiếng mặt đất hai miền hòa làm một
Và vầng trăng, vầng trăng đất nước
Mọc qua quầng lửa, mọc lên cao.
Bài thơ sáng tác vào năm 1969, năm vặn mình sang một giai đoạn mới, sau những mất mát của Mậu Thân-1968, Phạm Tiến Duật đã gửi vào thơ một tiếng nói, đúng hơn là tiếng hát, tiếng hát cho một ngày chiến thắng, vẹn tròn Nam Bắc.
Bên cạnh phản ánh cái gian lao, vất vả của cuộc chiến đấu, thơ chống Mỹ còn có cái nhìn trầm tĩnh, nhân hậu với bao xúc cảm về mẹ trong tâm hồn người lính. Tố Hữu rất chí lý khi cho rằng: Nói về dân tộc Việt Nam mà không nói về người mẹ thì coi như chưa nói gì. Quả đúng vậy. Trong trường ca Những người đi tới biển, Thanh Thảo đã mở đầu bằng những dòng viết về mẹ thật cảm động:
... Cho con xin bắt đầu từ mẹ
Để nói về chúng con
Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng
áo lính
Xanh màu áo lính
Đã từng sung sướng, đã từng nghẹn ngào
Được làm con mẹ
Được ra trận những năm đất nước mình khốc liệt...
Mẹ là nguồn sức mạnh trực tiếp, nơi gửi về bao nhớ thương da diết, cháy lòng. Người lính trong thơ Hữu Thỉnh đã tìm thấy ở mẹ những gốc rễ sâu bền của quê hương, mẹ là linh hồn của đất, là núm ruột rút ra chia đều các con trên mọi chiến trường. Trong chiến dịch cuối cùng, trước cửa mở vào thành phố, ăn bát cơm trắng không độn, người lính cứ đau đáu nghĩ về người mẹ:
Chiến dịch này ăn cơm không phải độn
Mừng thì mừng mà thương mẹ biết
bao nhiêu
Ngày mai chúng con đánh trận cuối cùng
Đêm còn lạnh ở ngoài ta đấy bạn
Ngoài ta độ này đang giáp hạt
Cây rơm gầy xay giã cũng thưa đi...
(Trường ca Đường tới thành phố)
Vượt lên trên câu chữ, đây chỉ còn nỗi niềm. Bao nhiêu năm hậu phương miền Bắc ăn độn, dành gạo cho chiến trường. Để cho trận cuối này, phần độn phải tăng lên. Người lính bưng bát cơm ăn mà lòng rưng rưng thương mẹ biết bao nhiêu. Trong cảm xúc miên man nghĩ về người mẹ, người lính quay sang đồng đội, nói như để chia sẻ: đêm còn lạnh ở ngoài ta đấy bạn, ngoài ta độ này đang giáp hạt... Cái lạnh, cái khó, cái lo đang dồn lên đôi vai của mẹ. Tháng tám ngày ba với cái rét nàng Bân và tiếng xay giã thưa đi... cách trận địa hàng nghìn cây số, quê nhà vẫn hiện lên tâm trí người lính. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã dựng chân dung người mẹ bằng những nét thân thương, thầm lặng đến nao lòng.
Cũng viết về người mẹ, Nguyễn Khắc Phục đưa ta về với bao ngày gian khổ của chiến trường Quảng Đà. Nơi mái tranh xưa chỉ che đủ nửa miệng hầm, mẹ cho ô gạo cuối cùng và đưa con qua đầm lầy bãi bói. Đêm tháng mười, sương bay mênh mông, máy bay giặc soi đèn bắn vào nơi mẹ ngủ. Vậy mà, người mẹ Duy Xuyên ấy không nghĩ về mình:
Thương con đồng trắng muỗi nhiều
Dưới cỏ ướt làm sao nhắm mắt
Biết đêm nay, cơn sốt đã lui chưa
(Nhân dân tin yêu)
Ngô Thế Oanh có những câu thơ viết về sự trầm ngâm bên ngọn lửa của những người lính trên chiến trường đất Quảng:
Đêm đêm những đỉnh rừng nổi gió.
Chiến sĩ ngồi. Và ngọn lửa trầm ngâm,
Ôi làng quê, làng quê quá xa xăm
Cánh đồng rộng và chân trời gần gặn…
(Viết trong mùa thu 1975)
Thơ chống Mỹ, khi viết về người lính, còn một cung bậc khác. Đó là tình yêu. Đó là một Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn với chùm hoa bưởi thanh tao, dịu nhẹ chia tay vẫn chẳng nói điều gì/Mà hương thầm thơm mãi bước người đi... Đó là Cuộc chia ly màu đỏ của Nguyễn Mỹ với những giọt nước mắt long lanh, sáng ngời. Đó là ánh trăng soi đáy nước đêm rằm, như lòng em dõi theo anh từng bước trong Trăng của Nguyễn Trọng Oánh. Đó là nụ cười bẽn lẽn của người con gái đang yêu trong Cô gái An Thường của Giang Nam. Đó là chiếc nón bài thơ như một Cái chao đèn của Phạm Tiến Duật Khoảng râm là ánh sáng màu /Của tình yêu, ở trên đầu đó em...
Nguyễn Khoa Điềm đưa ta về một khoảng trời êm đềm, cái êm đềm cần thiết để giữ lại niềm tin. Ở đây, tình yêu đôi lứa hòa quyện với tình yêu Tổ quốc, cái riêng tồn tại trong cái chung. Tình yêu trở thành động lực của cuộc chiến đấu. Những dòng thơ xinh xắn, đậm sắc màu dân gian, phả trong âm điệu lục bát đầy xao xuyến:
... Yêu em, yêu cả khoảng trời
Sương giăng buổi sớm, nắng đời chiều hôm
Tháng tư giông chuyển bồn chồn
Hạt mưa vây ấm, nỗi buồn cách xa...
Phía em, phía của quê nhà
Trắng là tóc mẹ, xanh là áo em
Anh đi kháng chiến trăm miền
Hướng dương thương nhớ vẫn nghiêng
phía này.
(Nguyễn Khoa Điềm - Khoảng trời yêu dấu)
Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đi qua. Nói như nhà thơ Bằng Việt: Chiến trường quen, mới đó đã xa rồi! Song, những gì người lính đóng góp cho dân tộc, sẽ còn mãi với lịch sử. Trên mỗi dặm đường đất nước, còn âm vang bao cuộc đời bình dị, sáng trong và nhiều người đã nằm xuống:
Nếu một ngày ta dựng những hàng bia
Xin hãy đề: «Nơi đây những cuộc đời chưa bao giờ yên nghỉ»
(Thanh Thảo - Những người đi tới biển)
HUỲNH VĂN HOA