Đà Nẵng cuối tuần
Thương lục - thuốc xổ, đừng lầm thuốc bổ
Dù đã vài lần viết bài cảnh báo “sự nhầm lẫn chết người giữa sâm và thương lục”, được nhiều báo điện tử đăng lại, nhưng hiện tượng nhầm lẫn này vẫn tiếp tục diễn ra khá phổ biến.
Thương lục - Phytolacca acinosa |
Trong năm 2014 tôi đã gặp ít nhất 3 trường hợp: một số nông dân ở Hòa Phú, một lương y ở Hòa Phong, một kỹ sư xây dựng ở Khuê Trung đã trồng và sử dụng củ cây này dưới nhiều tên mỹ miều là “hồng sâm”, “cao ly sâm”...; trong đó đã có người đem củ ngâm rượu uống bị đau bụng dữ dội suýt phải đi cấp cứu. Nay, thêm một lần xin được gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh này.
Còn nhớ cách đây 7-8 năm, có nhiều báo chí đưa rộ thông tin về một mô hình trồng cây đảng sâm thành công ở Tam Kỳ. Một sinh viên năm thứ 4 ở Trường Đại học Sư phạm (ĐH Đà Nẵng) đã cất công tìm đến tận nơi xin mẫu cây về định nuôi cấy mô nhân giống làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Loay hoay mất mấy ngày đọc tài liệu thấy mẫu cây không giống sách dược liệu mô tả, bạn trẻ nọ tìm đến tôi nhờ định danh.
Thoạt nhìn, tôi biết ngay đó là cây thương lục. Sở dĩ tôi xác định nhanh là nhờ trước đó 3-4 năm đã từng gặp một cán bộ hưu trí ở quận Thanh Khê mang mẫu cây tương tự do một người quen biếu bác trồng gọi là “sâm Ngọc Linh”, tôi đã mày mò tra cứu và xác định được đó là cây thương lục.
Thương lục còn có tên là trưởng bất lão, kim thất nương, tên khoa học là Phytolacca acinosa Roxb. (P. esculenta Van Houtte), là cây mới được di thực vào nước ta mấy thập kỷ gần đây. Trong nước vốn có sẵn loài thương lục Mỹ (Phytolacca americana L. hay Phytolacca decandra L.), dân gian còn gọi sâm voi vì cây mau lớn, sau 6 - 7 tháng cho củ to bằng cổ tay hình rất giống củ sâm (sự nhầm lẫn chết người từ đây mà ra).
Trên thực tế, thương lục không phải là vị thuốc xa lạ gì đối với Đông y. Trong sách thuốc đầu tiên Thần Nông bản thảo kinh xuất hiện cách đây gần 2.000 năm đã có ghi chép tỉ mỉ về vị thuốc này nhưng xếp nó vào nhóm “hạ phẩm” vì là thuốc có độc.
Theo Từ điển cây thuốc Việt Nam, thương lục là cây thảo sống nhiều năm, cao tới 1,5m. Rễ củ mập. Thân hình trụ nhẵn, màu xanh lục, ít phân nhánh. Thương lục được trồng nhiều làm cảnh và làm thuốc. Trồng bằng mầm rễ và bằng hạt. Có thể thu hoạch rễ vào mùa thu hay mùa đông. Đào rễ về, cắt bỏ rễ con, rửa sạch, thái mỏng và phơi khô. Có khi người ta ngâm vào rượu có pha mật ong rồi mới phơi hay sấy khô.
Theo Đông y, thương lục có vị đắng, tính lạnh, có độc, vào hai kinh tỳ và bàng quang, có tác dụng thông đại tiểu tiện, trục thủy, tiêu thũng, tán kết; dùng để chữa phù thũng, xơ gan cổ trướng, đại tiểu tiện không thông; viêm loét cổ tử cung, bạch đới nhiều; đinh nhọt và bệnh mủ da. Hiện nay thường dùng để chữa những trường hợp phù nề, ngực bụng đầy trướng, cổ đau khó thở. Ngày dùng 3 - 10g dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác. Dùng ngoài đắp tại chỗ.
Cần chú ý thương lục là một vị thuốc công hạ (tẩy xổ ) mãnh liệt, có thể gây sảy thai, nên không dùng cho phụ nữ có thai và người già, người tỳ vị hư nhược. Ngay cả người trai trẻ khỏe mạnh mà dùng nhiều và dùng lâu dài thì cũng tổn thương gân cốt và hại thận.
Theo nghiên cứu dược lý hiện đại, thương lục có tác dụng giảm ho, bình suyễn, hóa đàm, chống viêm,… Trong củ có một chất độc đắng gọi là phytolaccatoxin, rất nhiều muối kali nitrat, axit oxymyristinic và một chất steroid saponin (chất này có tác dụng diệt tinh trùng); có sách nêu có axit esculentic.
Thương lục có độc nên dùng quá liều trên người gây ngộ độc sau 20 phút đến 3 giờ. Ngộ độc nhẹ thì thân nhiệt tăng, tim đập nhanh, thở mạnh, nôn mửa, đau bụng, tinh thần hoảng hốt, nói lảm nhảm. Ngộ độc nặng thì gây liệt thần kinh, hôn mê, thở khó, huyết áp tụ, tim ngừng đập gây tử vong. Trong dân gian có kinh nghiệm dùng cam thảo sống, đậu xanh giã dập nấu nước uống giải độc thương lục, nhưng tốt nhất nên đưa ngay người bệnh cấp cứu ở cơ sở y tế hiện đại.
Bài thuốc chữa bệnh có thương lục
- Chữa viêm thận cấp và mạn: Thương lục 10g, thịt lợn 60g, cho nước vào nấu chín, chia làm 3 lần ăn trong ngày.
- Chữa cổ trướng: Thương lục 6g, vỏ quả bí đao, đậu đỏ mỗi thứ 30g, trạch tả 12g, phục linh bì 20g. Sắc nước uống.
- Chữa chứng đau cổ họng: Dùng rễ thương lục hơ nóng bọc vải chườm vào cổ.
- Bệnh mủ da, mụn nhọt, đầu đinh: Thương lục 15g, bồ công anh 60g, nấu nước rửa.
PHAN CÔNG TUẤN