Đà Nẵng cuối tuần

Một người Hội An khí tiết

22:39, 02/04/2016 (GMT+7)

“Nhà Hội An học” Nguyễn Bội Liên sinh năm 1911 và mất năm 1996. Năm nay kỷ niệm 20 năm ngày ông qua đời và cũng là kỷ niệm 105 năm ngày sinh của ông - một trí thức tiêu biểu của Hội An.

Cụ Nguyễn Bội Liên và những tập bản thảo.
Cụ Nguyễn Bội Liên và những tập bản thảo.

Năm 1996, những người trí thức Hội An và Quảng Nam bàng hoàng khi nghe tin ông qua đời sau một cơn đột quỵ ở tuổi 85. Cũng như cố nhà văn Nguyễn Văn Xuân, sự ra đi của cụ Bội Liên đã để lại một khoảng trống không ai thay thế được ở Hội An, bởi những kiến thức uyên thâm về quê hương, vốn học (cả tự học) và khí tiết mạnh mẽ của ông.

Người con trai trưởng Nguyễn Bội Ngọc của ông sẵn sàng cho xem hàng chục cuốn bản thảo, sách báo cũ của thân sinh mình mỗi lần tôi đến viếng ông ở ngôi nhà nhỏ bên kia cầu An Hội. Trong thâm tâm, ông Ngọc vẫn tự trách mình là “cha làm thầy, con đốt sách” và ước ao có ai đó tiếp tục những công việc mà cụ Bội Liên còn bỏ dở…

Một gia tài trước tác chưa công bố

Cụ Nguyễn Bội Liên sinh năm Tân Hợi, 1911, tại làng cổ Hồng Triều, còn có tên là cảng Trà Nhiêu, nay thuộc xã Duy Nghĩa, bên kia sông Thu Bồn. Ông Ngọc nhớ lại: Chức vị cao nhất của “ngài”- cách ông gọi cha mình - là được bầu vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã Duy Nghĩa vào năm 1945.

Sau đó gần 30 năm, cụ được mời dạy Hán - Nôm vào năm 1974 tại Đại học Quảng Đà. Sau năm 1975, cùng nhà văn Nguyễn Văn Xuân, cụ tham gia tổ nghiên cứu lịch sử địa phương của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (cũ), chuyên về mảng văn hóa cổ Hội An.

Ngoài ra, suốt quá trình học tập từ trường dòng Pellerin ở Huế… đến khi về với ông bà, ông Ngọc tổng kết: “Ngài” luôn là người phóng túng, không muốn ràng buộc, luôn giữ vững khí tiết và không chiều lụy bất cứ ai! Nhưng đồng thời cũng cho thấy tư cách và trách nhiệm của một người  trí thức…”.

Người ta chỉ biết đến những công trình nghiên cứu văn hóa, dịch thuật từ Hán văn và Pháp văn tiêu biểu như Ghe bầu xứ Quảng (biên khảo), Hải phố - tiền thân của Hội An, Gió trăng cố quận (tập thơ xưa về Hội An- NXB Đà Nẵng, 1996), Phố người Đường và việc buôn bán ở Hội An thế kỷ XVII - XVIII – Cheng Chin Ho-Trần Kinh Hòa - phần I quyển 3, các bài nghiên cứu về địa lý - lịch sử Hội An, hàng trăm câu liễn đối của các danh nhân, chí sĩ Quảng Nam, về hát bội, về hoạt động và sản phẩm các làng nghề truyền thống... đã được công bố của cụ Nguyễn Bội Liên.

Nhưng ít ai biết, trong kho bản thảo của ông còn có mấy chục bản dịch các tập truyện Liêu trai chí dị, Tam Quốc Chí diễn nghĩa, Nam hoa kinh, sáng tác tuồng về chí sĩ Nguyễn Duy Hiệu, các bản thảo về Lược sử cách mệnh Việt Nam (giai đoạn 80 năm mất nước - viết xong ngày 22-7-1948 khi dạy tại trường Đoàn kết kháng chiến khóa Võ Khoa tại Thăng Bình), Quảng Nam tỉnh phú (dịch thơ của cụ Trần Đình Phong cùng Hồ Ngận), các công trình sưu tầm, biên khảo và dịch thuật về Quốc ngạn (4 quyển), Thực nghiệm lương phương (các phương thuốc cấp cứu của người xưa), sáng tác tuồng hát bội Sao khuê lấp lánh (về anh hùng Nguyễn Trãi), dịch hàng trăm bài thơ Đường, Tống,  nhiều thơ thù tạc luật Đường, nhiều câu đối hay... Ông Nguyễn Bội Ngọc nhiều lần nói với chúng tôi: Ông vẫn giữ kỹ các bản thảo trên “của ngài” và mong có được người thẩm định để công bố, có vậy mới trả được ơn sinh thành…

Nhà thơ Phùng Tấn Đông từng cho rằng: “Từ những công trình chuyên sâu về Hội An, cụ Liên được nhiều người kính trọng và tôn vinh là nhà “Hội An học”.

Tự học và đầy khí tiết

Từ nhỏ cụ Nguyễn Bội Liên theo học chữ nho với người anh con bác ruột, rồi học tiếng Pháp ở Hội An trước khi vào trường dòng Pellerin ở Huế, học sau nhà cách mạng Cao Hồng Lãnh và nhà thơ Hàn Mặc Tử vài năm. Ông Nguyễn Bội Ngọc kể: Vì quê nghèo, cả xã Duy Nghĩa chỉ có hai người ra học ở Huế lúc đó là ông Ngô Lạng và Nguyễn Bội Liên.

Tham gia lễ truy điệu cụ Phan Tây Hồ, nghe cụ Phan Bội Châu đọc văn tế ở Huế xong, Nguyễn Bội Liên cùng nhiều học sinh lúc đó bị đuổi về quê, và bắt đầu quá trình tự học như nhiều người Quảng Nam thế hệ ông, mà nay ta còn nhớ như Khương Hữu Dụng, Lê Trí Viễn, Hoàng Tụy hay Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Hoàng Châu Ký sau đó...

Trong quá trình tự học, cụ Nguyễn Bội Liên không ẩn mình trong tháp ngà, mà chọn con đường dấn thân. Cụ mở trường tư thục Phú Quốc ở gần khu thợ thuyền Nại Hiên (Đà Nẵng). Bị Pháp đóng cửa vì nghi liên quan đến Việt Minh, cụ lại theo ghe bầu của người bác ruột vào Nam, ra Bắc và ngược Mê Kông sang tận Nam Vang để… vừa đi buôn vừa tìm hiểu nghề buôn, trải nghiệm con đường vượt biển mở cõi của cha ông.

Lại bị bắt vào nhà lao Vĩnh Điện cho đến khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, cụ quay về làng Hồng Triều làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã, dạy bổ túc văn hóa và “khai tâm” cho các lớp trẻ về con đường yêu nước.

Lẫn trong đống bản thảo của cụ để lại, tôi đọc được cuốn Con đường cách mệnh Việt Nam giai đoạn 80 năm mất nước” (dịch từ tài liệu Pháp và Hán văn), 4 tập Quốc ngạn được biên dịch từ Hán văn vào những năm tản cư và dạy học ở vùng kháng chiến ở Quảng Nam.

Như ông tự viết trong lời mở đầu tập Quốc ngạn 1: “Tôi nhơn ôn dịch, lượm dồn lời tục ngạn, trích đối được 1.500 liên đặt tên bộ Quốc ngạn, chia Nhơn sự, Vật lý (2 quyển), bổ thêm chữ Hán xếp 2 liên vào một vần, trăm liên làm một thiên, chỗ thì giải nghĩa chỗ thì nối lời… trong 5 năm mới thành” nhằm khuyên răn dạy bảo cách ở đời của người xưa cho lớp trẻ…

Ông Nguyễn Bội Ngọc kể rằng thân sinh mình luôn giữ khí tiết trong sáng, không luồn cúi, chỉ làm những gì thấy có ích cho đời: “Ông Ngô Đình Cẩn cùng học với “ngài” ở Huế, sau năm 1954 cũng nhiều lần nhắn ra chơi nhưng ông khẳng khái từ chối, nói đứa nào đến thăm thì đến, tau chẳng đi đâu cả…”, ông Ngọc kể.

Khi đọc những di bút cụ Bội Liên để lại, tôi mới thấy và hiểu hết tâm hồn cụ.

Năm 1970, đến tuổi lục tuần, cụ viết bài Lục thập tự trào:

Canh Tuất năm này tớ sáu mươi
Làm không nên dáng, sống trơi đời
Thi ngâm lạc vận người bưng mũi
Đàn họa ngang cung chúng bĩu môi
Láo với đôi mươi, thằng trẻ nít
Gian thêm năm bảy, phút trò chơi
Thánh nhân nhĩ thuận mình ú ớ
Phải trái không phân, chỉ nước cười.

Trước đó, cụ khai bút trong đêm giao thừa:

Gà đã đi rồi chó lại đây
Tốt chi mà vướng giống muông này
Vẫy đuôi nghếch mỏ quen mừng chủ
Cào móng nhe nanh chực cắn bầy

Đầu năm 1974, sau chuyến đưa đứa cháu đích tôn theo đường dây ra Bắc thất bại, cụ đến nhà cụ Phạm Phú Hưu (nhà giáo, cháu nội đại thần Phạm Phú Thứ) ở bờ sông Hội An, lại nghe bên kia sông có loa tuyên truyền vọng sang, liền lấy hai câu thơ cổ ghép lại, trong đó câu sau lấy từ bài Bạc Tần hoài nổi tiếng của Đỗ Mục để tặng cụ Hưu:

Cận thủy lâu đài tiên đắc nguyệt
Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa

(Tạm dịch: Lâu đài bên bờ nước thì được trăng chiếu sáng trước; Ở bên bia sông còn hát khúc Hậu Đình Hoa)

(Trong bài của Đỗ Mục có hai câu: Thương nữ bất tri vong quốc hận/ Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa)

Chừng đó cũng đủ chứng tỏ khí tiết và uyên thâm của “nhà Hội An học” Nguyễn Bội Liên.

Tưởng nhớ một người con uyên thâm và khí tiết ấy của Hội An, nhân kỷ niệm 20 năm ngày mất và 105 năm ngày sinh của cụ, tôi chạnh lòng đề xuất với chính quyền và những người quản lý văn hóa của Hội An lẫn Quảng Nam rằng: 1- Cần sớm tập hợp và thẩm định lại các công trình nghiên cứu, trước tác của cụ để công bố rộng rãi và, 2- Sớm ghi nhận sự đóng góp của một người con Hội An bằng việc đặt tên ông cho một con đường hoặc công trình văn hóa ở phố cổ Hội An như đã làm với KTS Kazik và các nhà văn khác.

TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG

.