Đà Nẵng cuối tuần
Cây đào làm thuốc
Người yêu hoa, yêu thơ không ai không biết câu thơ bất hủ “Đào hoa y cựu tiếu đông phong” của Thôi Hộ, được thi hào Nguyễn Du chuyển ngữ tài tình “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”. Đào không chỉ là cây ăn quả, cây cảnh, cây hoa không thể thiếu của người dân xứ Bắc trong dịp Tết cổ truyền, mà còn là cây thuốc quý.
Một cây đào ra hoa trên đường Phạm Tứ, quận Cẩm Lệ, Đà Nẵng. Ảnh: P.C.T |
Theo Từ điển cây thuốc Việt Nam, Ðào có tên khoa học Prunus persica (L,) Batsch, thuộc họ Hoa hồng - Rosaceae.
Đây là cây gỗ nhỏ, cao 8-10m, mọc lâu năm, thân nhẵn, phân cành nhiều, màu đo đỏ, chồi có lông mềm. Lá hình bầu dục ngọn giáo, dài 8-15cm, rộng 2-3cm, có mũi nhọn dài, nhăn nheo, có răng mịn, màu lục thẫm hay lục nhạt tùy giống; cuống lá có tuyến. Hoa hình chuông màu đỏ nhạt, có khi trắng, thường mọc đơn độc, có cuống ngắn. Quả hạch hình cầu, có một rãnh bên rõ, phủ lông tơ mịn, khi chín hơi có màu đỏ, vỏ quả trong hóa gỗ bao lấy hạt (nên người ta gọi là quả hạch). Mùa hoa tháng 1-4, quả tháng 5-9.
Ðào thích nghi với vùng khí hậu nhiệt đới núi cao các tỉnh miền Bắc vào đến Thanh Hóa, còn có ở Lâm Đồng. Tại Đà Nẵng thỉnh thoảng vẫn gặp những cây đào được trồng cho hoa đúng dịp Tết (xem ảnh). Người ta ăn quả lấy hạt. Ðập vỡ vỏ lấy hạt, ta thường gọi là nhân, nên mới có tên là Ðào nhân, thực ra đó mới là hạt Ðào, đem phơi hoặc sấy khô. Hoa thu hái vào mùa đông xuân, các bộ phận khác thu hái quanh năm, dùng tươi.
Phân tích thành phần hoá học cho thấy phần thịt của quả Ðào chứa chất màu (carotenoid, lycopen, cryptoxanthin, zeaxanthin), 15% đường, acid hữu cơ (acid citric, acid tariric), vitamin C, acid clorogenic, ít tinh dầu. Hạt chứa 50% dầu béo, 3,5% amygdalin. 0,40-0,70%, tinh dầu, ennulsin; còn có acid prussie, cholin, acetylcholin. Lá Ðào chứa amygdalin, tanin, coumarin. Hoa chớm nở chứa glucosid, trifolin. Nhựa Ðào chứa I-arabinose, d-xylose. I-rhamnose, acid d-glucuromic.
Theo Đông y, Ðào nhân có vị đắng, ngọt, tính bình, có tác dụng phá huyết thông kinh, nhuận táo, hoạt trường, lợi tiểu hạ huyết áp, chữa ho. Lá Ðào có vị đắng, tính bình, có tác dụng làm tan kết tụ và giảm đau, ngoài ra còn có tác dụng lợi tiểu mạnh. Người ta đã nghiên cứu về các tác dụng ức chế sự đông máu, tác dụng chống dị ứng, tác dụng chống viêm của nhân Ðào, tác dụng diệt khuẩn, tẩy và diệt giun của lá Ðào.
Ðào nhân, dùng sống trị kinh nguyệt bế tắc, sinh hòn cục, bụng dưới đầy, đau, vấp ngã ứ huyết; dùng chín thì hoạt huyết, chữa đại tiện khó đi do huyết táo, ngày dùng 6-12g dạng thuốc sắc. Ðào nhân còn dùng chữa ho như hạt mơ. Lá Ðào thường dùng sắc nước hoặc vò ra lấy nước tắm ghẻ, sưng ngứa, chốc lở, xát và ngâm chữa đau chân. Hoa Ðào cũng được dùng làm thuốc lợi tiểu và tẩy xổ, để chữa thủy thũng, táo bón. Ngày dùng 3-5g hãm uống. Nhựa Ðào dùng trị đái ra dưỡng trấp, đái đường.
Ðơn thuốc:
1. Chữa kinh nguyệt không đều, đau bụng máu: Ðào nhân, Hồng hoa, Ngưu tất, Tô mộc, Mần tưới, Nghệ vàng đều bằng nhau, mỗi vị 8-15g sắc uống.
2. Chữa bí đại tiện: Dùng Ðào nhân 40g luộc ăn vào lúc đói.
3. Chữa đại tiểu tiện không thông: Dùng lá Ðào một nắm to, giã vắt lấy nước cốt uống.
4. Chữa phù thũng: Dùng vỏ cây Ðào ngâm rượu uống.
5. Chữa đái dưỡng trấp: Dùng nhựa cây Ðào 12g tán nhỏ uống với nước sắc 30g Dây tơ hồng.
6. Chữa đái đường: Dùng nhựa Ðào 20g tán nhỏ uống với nước sắc Ðịa cốt bì và Râu bắp (mỗi thứ 30g).
7. Chữa chốc lở, rôm sảy, sưng âm hộ: Giã lá Ðào tươi xoa xát.
8. Chữa phù, đại tiện táo bón: Dùng hoa Ðào 3-5g, sắc uống.
9. Chữa bại liệt nửa người: lấy 2.000 nhân quả Ðào đã bóc vỏ cho vào một lít rưỡi rượu để ngâm 21 ngày, vớt nhân Ðào đem phơi khô sấy giòn, tán nhỏ mịn, trộn với nước cháo cho vừa dẻo làm viên to bằng hạt đậu đen, mỗi ngày uống 30 viên với một thìa rượu ngâm nước của nó.
10. Chữa đau vùng tim đột ngột: Lấy 30g nhân hạt Ðào bóc vỏ giã nhừ, cho vào một chén nước đun kỹ để uống 3 lần.
Kiêng kỵ: Không có ứ trệ, đàn bà có thai không nên dùng.
PHAN CÔNG TUẤN