May mà còn đôi chim cu về đậu trên mấy ngọn tre kia bật lên tiếng hót mong manh. Có vẻ như tiếng chim từng hồi gióng lên cao rồi xuống thấp theo nhịp điệu gió vít đầu ngọn tre cong vòng xuống, là từng hồi kể lể mênh mang trước vô tận những biến dịch muôn thuở sông cạn đá mòn...
Ảnh: MINH TRÍ |
Trên con đường bỏng rát nắng nóng giữa một buổi trưa, đáng lẽ ra tôi vù xe chạy thêm một nhoáng nữa là qua cầu về tới nhà ở phố xá bên kia sông. Ấy vậy mà tiếng hót (hay là tiếng gáy) của đôi chim cu “Cúc… cù… cu” trên ngọn hàng tre nơi cái bìa làng thôn nhỏ ven sông này cám dỗ tôi quành xe lại đứng ngẩn ngơ dưới hàng tre vừa trốn nắng, vừa nghe ngọt ngào chút âm thanh chim hót vung vãi giữa mấy tầng không.
Chẳng phải tôi rành gì mấy thú chơi chim để thưởng thức cái âm giọng thổ pha kim nồng nàn của đôi chim cu trống mái đang tình tự với nhau theo từng nhịp gió thổi. Nhưng quả thực, nghe cái tiết tấu “gù… gù… gù” rồi luyến láy trầm bổng vang xa “cúc… cù… cu…” trên vòm xanh kia, từ tầng cao ấy, có cảm giác như tỏa ra một năng lượng có khả năng hóa giải, làm dịu mát cơn nắng nóng đầu mùa. Và hơn thế nữa, dường như đấy là thứ âm thanh biết hoài cảm của giống loài chim đa tình dễ làm thao thức nỗi hoài hương của những người xa xứ.
Cái làng quê ven sông này từ mấy năm nay thực ra cũng chẳng còn là… làng quê nữa. Dăm ba cây tre còn lại nơi con đường bìa làng, bên một cái lạch nước, có lẽ do người ta cần bóng mát cho một công trường xây dựng nên chưa cày ủi san lấp nốt. Nhờ vậy mà một buổi trưa tình cờ có chỗ cho tôi và chim chóc khu trú vào đó, để mỗi kẻ một nỗi niềm riêng tha hồ mà hoài vọng về một quê xứ khôn khuây từng ngày biển đã xanh dâu.
Chuyện những thôn xóm làng quê bây giờ đã dần hồi “lên đời” đô thị hóa âu cũng chẳng lấy gì làm lạ. Ngày nay, đến tận các làng bản xa xôi ở những vùng miền núi non heo hút, còn có nơi bát ngát hơi hướm phố thị hiện đại can dự vào các sinh hoạt đời sống, huống chi là cái làng ven sông ở cuối vùng ngoại ô này.
Chỉ có điều sự thay đổi nơi đây không theo cái dòng chảy thời gian loang dần dần từng phần, từng vùng, kiểu như mỗi ngày “hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”, mà là sạch sành sanh, thay đổi triệt để đến từng cây cỏ. Hàng trăm, hàng nghìn mẩu đất đai ruộng đồng tươi tốt, vườn tược sum sê cây trái đều cày xới san ủi trắng xóa, đến không còn mong gì nhìn thấy bóng dáng một làn khói rơm rạ nào đó may mắn sót lại bay lên.
May mà còn đôi chim cu về đậu trên mấy ngọn tre kia bật lên tiếng hót mong manh. Có vẻ như từng hồi tiếng chim gióng lên cao rồi xuống thấp theo nhịp điệu gió vít đầu ngọn tre cong vòng xuống, là từng hồi kể lể mênh mang trước vô tận về những biến dịch muôn thuở sông cạn đá mòn. Mà thanh âm của đôi chim cu kỳ diệu thật! Cứ chầm chậm ngắt quãng đều đặn như một giai điệu slow thanh bình gieo vào những tầng không. Hễ cách một quãng ngắt là không gian tưởng chừng như hun hút xa xăm hơn và thanh vắng một cách lạ lùng.
Buổi trưa đi vào giữa lòng lá nhỏ. Tiếng kêu kia còn một chút mong manh. Dòng nức nở những tia hồng đốm đỏ. Lạc trời cao bóng tụ kết không thành. Cũng chẳng rõ vì sao những lúc nghe tiếng chim vang xa gọi cả trời thanh vắng kia, tôi lại lầm thầm ngâm nga mấy câu thơ của thi sĩ Bùi Giáng. Có một hiệp thông nào đó từ cái thôn nhỏ ven sông này mách bảo, hay là “tiếng kêu kia” của loài chim bàng bạc một thứ mật ngôn, mật ngữ có khả năng dẫn đường cho vô thức vẽ vời cái quê xứ siêu hình ẩn tàng giữa không gian mênh mông trắng xóa.
Chợt nhớ có lần tham dự Festival của một thành phố. Tại đấy, người ta bày ra, xen trong không gian tấp nập của phố phường dăm ba cái lều tranh có phên tre liếp cửa, có quanh co đường làng, có cầu tre lắt lẻo…
Nhìn vào đấy, ai cũng có thể hiểu đó là một làng quê, nhưng mà là một làng quê… sân khấu kiểu sức, làng quê trình diễn, được tạo dựng lên như một thứ mốt hoài cổ. Kể cũng lạ, có những xóm làng yên vui thanh bình xanh ngời sức sống, đẹp như cổ tích, vậy rồi người ta chối từ, ào ạt dọn dẹp tất cả đi để đua bơi cho ra đô thị hiện đại.
Đến một ngày, chợt thấy thiên hạ tưng bừng lễ hội văn hóa, lễ hội tâm linh…, có nơi còn xênh xang và đồng bóng các kiểu, vậy là mình cũng lều tranh cây đa bến nước sân đình, cho nó “đậm đà bản sắc”, mà người tinh ý sẽ sớm nhận ra mớ đồ giả thêu thùa trên những tâm hồn trống trơn cằn khô văn hóa.
Đứng dưới bóng tre còn nấn ná sót lại của làng, cận kề cái mép nước một con lạch chảy từ sông vào, không dưng mà từ những chùm ấu dại xanh bập bềnh trên nhánh nước kia hiện ra những con thuyền giấy chở đầy tuổi thơ tôi…
Quê nhà của ai mà bàng bạc trong tôi, mơ hồ trong tôi những gương mặt ruột rà đến vậy! Rồi mai mốt đây con đường làng của thôn nhỏ này cùng với cái lạch nước bồng bềnh những chùm ấu dại xanh biếc kia, sẽ không còn lý do để tồn tại trước các dự án mênh mông ngày ngày chăm bẳm cái công việc cày xới, đo lường phân lô phân nền tính chuyện mua với bán. Lẽ đương nhiên đôi chim cu trên cao ấy cũng sẽ không còn chỗ để bay về cất tiếng hót tình tự ru mát những trưa nồng.
Chả hiểu chim có dự cảm gì không mà tiếng hót mênh mang chậm rãi từng hồi, như niềm chung thủy cuối cùng tan vào từng ngọn gió nồm thưa thớt thổi qua đồng bãi trắng xóa từng nỗi niềm hoài vọng khôn khuây!
NGUYỄN NHÃ TIÊN