Đà Nẵng cuối tuần
Vị vua hiếu thảo nhất và hay chữ nhất
* Hôm nọ, ngồi nói chuyện lịch sử, một người bạn nói rằng, Tự Đức là ông vua hiếu thảo nhất và cũng hay chữ thuộc loại bậc nhất nước ta. Mong quý báo nói rõ thêm về nhận định này. (Trần Lê, quận Hải Châu, Đà Nẵng)
Tượng quan hầu ở lăng Tự Đức (Khiêm Lăng). Ảnh: V.T.L |
- Vua Tự Đức (1829-1883) tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Thì, là con của vua Thiệu Trị và Thái hậu Từ Dũ. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã tỏ ra là người cực kỳ hiếu thảo và ham học.
Được Thái hậu Từ Dũ dạy dỗ nghiêm khắc nên Hoàng tử Ưng Thì không vướng vào lối ăn chơi xa xỉ như nhiều hoàng tử khác. Hoàng tử tôn kính, vâng lời mẹ hết mực. Bà truyền bảo điều gì đáng lưu tâm, vua liền ghi ngay vào sách tùy thân mà nghiền ngẫm, gọi là “Từ huấn lục” (sách chép lời mẹ dạy).
Theo các tư liệu lịch sử, trong suốt 36 năm làm vua, dù rất bận với công việc triều chính, nhưng cứ đến ngày lẻ, vua thiết triều; còn ngày chẵn, vua vào chầu cung vấn an sức khỏe mẹ, chẳng vì ngồi trên chỗ vạn năng quyền thế mà lơ là phận làm con. Như vậy, mỗi tháng vua dành 15 ngày vấn an mẹ. Những lúc có gì lo âu, vua liền thỉnh ý để được nghe lời dạy bảo. Vì thế, khi bà đề nghị giảm thuế cho dân vào những lúc gặp thiên tai, mất mùa, đói kém, nhà vua đều làm theo ý mẹ.
Sử sách kể rằng, một hôm rảnh việc nước, vua đi săn tại rừng Thuận Trực, gặp phải nước lụt không về được, trong khi chỉ còn hai ngày nữa đến kỳ giỗ kỵ vua cha Thiệu Trị. Thấy vua chưa về, Thái hậu Từ Dũ nóng ruột, phải sai quan đại thần Nguyễn Tri Phương đi rước. Nhà vua biết lỗi nên sau khi về đến cung lúc nửa đêm, vội lên kiệu trần đi thẳng sang cung, lạy xin chịu tội. Đức Từ Dũ ngồi xoay mặt vào màn, chẳng nói chẳng rằng.
Vua Tự Đức bèn lấy một cây roi mây, dâng lên để trên ghế trát kỷ rồi ngài nằm xuống xin chịu đòn. Cách một hồi lâu, Đức Từ Dũ xoay mặt ra lấy tay hất cái roi mà ban rằng: “Thôi, tha cho! Đi chơi để cho quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta, rồi sớm mai đi hầu kỵ”.
Sau khi rời cung Gia Thọ, ngay trong đêm ấy, vua đã thức rất khuya tại điện Cần Thành để thực hiện những điều mẹ dạy. Xem thế, đủ biết vua Tự Đức thờ mẹ rất chí hiếu.
Vua Tự Đức còn là người uyên thâm về nền học vấn Ðông phương, nhất là Nho học. Vua giỏi về cả sử học, triết học, văn học - nghệ thuật và đặc biệt là rất sính thơ. Theo thống kê, đương thời, vua Tự Đức đã để lại tới 4.000 tác phẩm văn học, trở thành vị vua có nhiều sáng tác văn học nhất trong lịch sử Việt Nam.
Thơ văn của nhà vua phản ánh một con người nhân hậu, một tâm hồn đa cảm, một tư chất hâm mộ nghệ thuật. Tư chất ấy cũng biểu lộ rõ trên nghệ thuật kiến trúc của lăng vua. Sử cho biết, chính nhà vua đã “chuẩn định” (décider) mô thức xây dựng nó. Trong vòng La thành rộng khoảng 12ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành cụm trên những thế đất phức tạp cao thấp hơn nhau chừng 10m. Nhưng các hệ thống bậc cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch bát tràng đã nối tất cả các công trình kiến trúc lại thành một thể thống nhất, tương quan, gần gũi.
Tháng 7-1883, vua Tự Đức băng hà khi chỉ 54 tuổi. Thông thường con cái sẽ dựng bia cho cha mẹ, nhưng vì nhà vua không có con nên trước khi mất, vua đã cho dựng một tấm bia rất lớn ở Khiêm Lăng, trên khắc bài văn do đích thân vua soạn.
ĐNCT