Nguyễn Nho Nhượn - một ánh sao bay qua bầu trời

.

23 năm có mặt trên đời, Nguyễn Nho Nhượn đã sáng tác được 6 tập thơ. Ông là ánh sao bay qua bầu trời rồi vụt tắt, để lại một sự nghiệp thơ đầy những hứa hẹn nhưng đành dang dở.

Thi sĩ Nguyễn Nho Nhượn (1946-1969). (Ảnh tư liệu)
Thi sĩ Nguyễn Nho Nhượn (1946-1969). (Ảnh tư liệu)

1. Với mỗi thi sĩ, hầu như cái tố chất siêu nhiên, bẩm sinh vốn như một niềm bí mật ẩn chứa hồn cốt và thi tài của họ. Muốn phát hiện ra những bí mật đó, hoặc có hoặc không, duy nhất chỉ có một con đường thông qua các sáng tác thơ của họ. Cố nhiên không phải ai cũng có cái nhãn lực đủ sức soi vào từng câu thơ, bài thơ để tường minh những giá trị siêu lý ấy.

Mặt khác, cũng có thi sĩ thể hiện trong tác phẩm thơ của mình, người đọc có cảm giác như đấy là một lời tiên tri, một dự cảm nào đó hé lộ về cái thế giới bí mật nhuốm màu định mệnh kia. Trong trường hợp thứ hai này xem ra ứng với thơ và cuộc đời thi sĩ Nguyễn Nho Nhượn - một nhà thơ đất Quảng, cùng với lớp các nhà thơ: Đynh Trầm Ca, Hoàng Lộc, Phan Duy Nhân… Đặc biệt, gần gũi hơn cả là với thi sĩ Nguyễn Nho Sa Mạc - một người anh em cùng dòng tộc Nguyễn Nho, lại là bạn thơ xuất hiện cùng thời trên văn đàn Sài Gòn vào những năm đầu thập niên 60 của thế kỷ trước. Vậy rồi cả hai, lần lượt kẻ trước người sau như là tia chớp, là ánh sao bay qua bầu trời rồi vụt tắt, để lại một sự nghiệp thơ đầy những hứa hẹn nhưng đành dang dở.

2. Nguyễn Nho Nhượn sinh ngày 12-3-1946 tại thôn Bồng Lai, thị xã Điện Bàn (tỉnh Quảng Nam), từng theo học các trường Nguyễn Duy Hiệu (Điện Bàn) và Trần Quý Cáp (Hội An). Ông bắt đầu sáng tác từ năm 1962, có thơ đăng trên các tạp chí xuất bản tại Sài Gòn; Văn, Văn học, Bách khoa, Phổ thông, Thời nay, Nghệ thuật… từ năm 1962-1968. Vào cuối năm Mậu Thân, ông lâm trọng bệnh và qua đời vào ngày 24-5-1969.

Vậy là 23 năm có mặt trên đời, Nguyễn Nho Nhượn đã sáng tác được 6 tập thơ. Chừng hơn 6 năm gắn bó với thơ, bình quân mỗi năm anh có một tập thơ: Tiếng nói giữa hư vô, Những lời sương khói, Lời buồn trong tim, Hơi thở miền nhiệt đới, Nỗi buồn mọc cánh, Những khúc ca hoang. Nhưng theo nhà thơ Đynh Trầm Ca, trong số thi phẩm đó chỉ có tập Tiếng nói giữa hư vô đã được bằng hữu hoàn thành nhân vào dịp kỷ niệm ngày giỗ lần thứ hai của ông (năm 1971).

Tiếng nói giữa hư vô gồm 38 bài thơ đủ các thể loại, có 100 trang in trên giấy trắng. Sách do hai người bạn thân của Nguyễn Nho Nhượn là nhà thơ Đynh Trầm Ca và Lê Nghiêm Vũ viết lời giới thiệu.
Dù Nguyễn Nho Nhượn có thời gian gắn bó với thơ không dài, hơn nữa tình trạng sức khỏe đau ốm kéo dài gần 2 năm cuối đời, nhưng có thể phân kỳ thơ của ông theo từng dòng các chủ đề khác nhau: Thơ học trò, thơ tình yêu và thơ thân phận. Nhưng dù là dòng thơ nào chăng nữa, sự ám ảnh về thế giới hẳn in sâu trong tâm tưởng của thi sĩ, nhất là những năm tháng đạn bom cày xới trên quê hương xứ sở từng ngày, sự gieo rắc đau thương do chiến tranh khốc liệt gây ra luôn là vết thương làm chảy máu tâm hồn nhà thơ.

Quê hương, quê hương chìm trong khói lửa

Chim muốn bay nhưng sợ lạc phương trời

                                              (Ý nghĩ học trò)

Cũng trong những ý niệm tương quan cùng thế giới ấy, thân phận thi sĩ là một hiện hữu cô đơn thường hằng. Mà không chỉ thì hiện tại, bằng cái nhãn quan thi sĩ siêu hình, nhà thơ dự báo cả tương lai:

Bây giờ tôi chẳng là tôi

hồn mang oan trái thân phơi bãi tình

mỏi mòn đếm tuổi điêu linh

cây tương lai vẫn nhánh cành quạnh hiu

                                                   (Bây giờ)

3. Nhà phê bình văn học Diên Nghị - cùng thời với thi sĩ Nguyễn Nho Nhượn - trong bài viết Một người thơ Quảng Nam: Nguyễn Nho Nhượn (1946-1969) đã đăng trên Khởi Hành số 96 tháng 10-2004, nhận định: “Thơ Nguyễn Nho Nhượn như những tiếng thở dài. Tiếng nói giữa hư vô là một chuỗi hơi thở buồn trầm từ một khoảng sống của một người trẻ tuổi sớm ý thức được niềm bất hạnh trên quê hương, thân phận. Nỗi chết đã ám ảnh Nhượn một cách ghê rợn, thường trực... Nhượn đã nhìn đời sống bằng đôi mắt thật nghi ngờ, bằng trái tim ngập ngừng khô héo trước một cảm nhận huyền kỳ về nỗi chết bên kia”. Quả là thơ Nguyễn Nho Nhượn nơi này nơi kia có nhuốm màu tang. Quả là có nỗi chết, mà cụ thể là cái chết của nhà thơ Nguyễn Nho Sa Mạc đã ám ảnh thi sĩ. Ngôn từ thơ cứ như rút ruột mà thành: “Đám tang qua thành phố/ có người cười như điên/ không ai là thân thích/ Thương linh hồn vô danh/ cây gục đầu cúi lạy/ bụi mờ làm khói hương/ mưa phùn làm nước mắt/ khóc cho người tha phương (Đám tang qua thành phố).

Tôi mượn một ý của nhà phê bình văn học Pháp lừng danh Milan Kundera đã viết trong tiểu luận “Nghệ thuật tiểu thuyết” (L’art du Roman), bản dịch Nguyên Ngọc, NXB Đà Nẵng 1998 - để nói về trường hợp này, rằng: “Biết về tác giả sẽ chẳng làm tăng (hay giảm) giá trị tác phẩm”. Quan điểm này minh định tiêu chí để làm thước đo (thẩm định) các giá trị nghệ thuật, đấy chính là các tác phẩm của nhà văn chứ không thể một thứ gì thay vào dù đó là nhân thân tác giả. Vậy nên, để có cái nhìn thấu đáo, nhận định trung thực khách quan hoàn toàn khi viết về một bạn thơ, lại là người đồng hương, thì việc cảnh giác là cần thiết bởi đôi khi cảm tính dẫn đường mà ta không hề hay biết.

Nhưng thi sĩ tồn tại ở giữa đời chính là sự lưu lại tác phẩm của mình giữa dòng thời gian bất tận. Hơn nửa thế kỷ đã qua, Tiếng nói giữa hư vô của thi sĩ Nguyễn Nho Nhượn vẫn như một hình hài, một chân dung siêu hình hiển lộ trong trái tim, trong ký ức của những người yêu thơ anh như ánh lửa lung linh giữa thời gian.

Thời gian lên ánh lửa

chuyến xe đời đi qua

đốt tan thành sương khói

âm vang lời bi ca 

Bấy nhiêu đó với tôi cũng là một thứ ánh sáng, mà tôi thường gọi là “kiếp thi sĩ - kiếp ánh sáng” - huyền nhiệm như một thứ trò chơi thần khải (une névélation), như bản mệnh một vì sao băng một hôm bay qua bầu trời này.

NGUYỄN NHÃ TIÊN

;
;
.
.
.
.
.