Chuyện làng Quang Châu

.

Làng Quang Châu, xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, theo lời các cụ cao niên nơi đây kể lại, một thời lừng lẫy khắp vùng về sự trù phú lẫn nền học vấn. Thời gian qua đi với bao cảnh bãi biển hóa nương dâu nhưng ngôi từ đường Tứ tộc Tiền hiền làng vẫn tồn tại cùng năm tháng...

Lễ tế Xuân cầu an đầu năm tại nhà thờ Tứ tộc Tiền hiền Quang Châu sáng 27-2-2020, nhằm ngày 5-2 Canh Tý.
Lễ tế Xuân cầu an đầu năm tại nhà thờ Tứ tộc Tiền hiền Quang Châu sáng 27-2-2020, nhằm ngày 5-2 Canh Tý.

Chàng rể làng Quang Châu

Một trong những phú hộ ở làng ngày trước là ông Trần Thượng Hữu, mọi người thường gọi là ông Học Băng. Băng là tên người con gái đầu của ông - bà Hai Băng, Trần Thị Băng. Học chỉ nghề của ông, hương sư dạy học ở làng thời Pháp, còn gọi là Cửu Học.

Ngày nọ, ông Học Băng thấy có một đoàn người cưỡi ngựa dừng trước cổng nhà mình, tỏ ý muốn gặp ông để thưa chuyện. Ông nhận ra trong đoàn có Tú tài Đỗ Tự là người về làm rể làng Miếu Bông bên cạnh. Sau tuần trà xã giao, khách giới thiệu trong đoàn có Thông Phiên, tức Thái Phiên, người làng Nghi An (nay thuộc phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ), có tài Hán học lẫn Tây học, bấy giờ đang làm thông phán ở sở dây thép, vợ mất đã lâu, nay mong muốn được tục huyền với cô Hai Băng.

Ông Học Băng đâm ra phân vân. Con gái mình đường đường là con nhà phú hộ, giờ có nên đi làm vợ kế người ta không? Ông biết Đỗ Tự là người làng Diệm Sơn (nay là xã Điện Tiến, thị xã Điện Bàn), khi đỗ tú tài không ra làm quan mà nhất quyết theo Trần Cao Vân, Thái Phiên tham gia phong trào chống Pháp. Đỗ Tự lấy vợ là bà Nguyễn Thị Thức ở làng Miếu Bông rồi dùng lời lẽ thuyết phục cha mẹ vợ và bà con bên vợ giúp đỡ làm ngôi nhà có gác ở gần chợ Miếu Bông sát đường quốc lộ để làm nơi liên lạc hoạt động cách mạng.

Qua mai mối của Tú tài họ Đỗ, ông nhận thấy Thông Phiên cũng đáng mặt anh hào, con gái ông về “nâng khăn sửa túi” sẽ được người ta gọi “bà Thông” thì cũng nở mày nở mặt với xóm làng. Không lâu sau đó, một đám cưới sang trọng nhất làng diễn ra, Thái Phiên chính thức trở thành con rể làng Quang Châu.

Về chuyện này, tác giả Thiện Sinh trong bài “Thái Phiên và cuộc Duy Tân khởi nghĩa” đăng trên Tạp chí Bách khoa, Sài Gòn, số 123, ngày 15-2-1962, cho rằng việc Tú tài Đỗ Tự làm mai mối để Thái Phiên (lúc đó giữ chức vụ kinh tài cho phong trào Đông du) tục huyền cùng con gái phú hộ Học Băng để việc quyên tiền chóng kết quả.

Từ đó, ông Học Băng không chỉ đóng góp tiền của cho phong trào mà còn vận động các nhà giàu khác ủng hộ “việc nghĩa” của con rể. Bà Hai Băng trọn đời lo toan sự nghiệp của chồng. Nhà văn Nguyễn Văn Xuân trong truyện ngắn “Rồi máu lên hương” kể rằng, khi Thái Phiên bị Pháp hành hình ở An Hòa, Huế, bà đã lấy tóc mình quấn lấy thủ cấp bê bết máu của chồng mang về nhà cha mình ở Quang Châu. Bà không tắm gội, cứ để nguyên mái tóc đẫm hương máu của chồng mình, trở mình đau đớn và qua đời.

Chuyện Thông Phiên làm rể Quang Châu được các thế hệ người dân nơi này truyền tụng với sự nể phục, tôn kính.

Tứ tộc Tiền hiền

Tộc Trần của ông Học Băng là một trong 4 vị tiền hiền làng Quang Châu, gồm: Trần, Đoàn, Lê, Huỳnh. Ông Đoàn Vĩnh Niên (tên khai sinh là Chế), 80 tuổi, làm tư văn của làng 40 năm nay, hiện còn lưu giữ tờ điệp văn dùng vào các lễ cúng tế ở làng, nội dung có nhắc đến công đức của tứ tộc tiền hiền.

Theo đó, vào đời Cảnh Hưng (1740-1786) của vua Lê Hiển Tông, có 4 vị tộc Trần, Đoàn, Lê, Huỳnh từ đất Bắc vào khai khẩn vùng đất hoang về sau đặt tên là Diêu Trì, nay thuộc xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang. Đây là nơi rừng thiêng nước độc, thú dữ hoành hành, không thuận tiện cho việc an dân. Các vị tiền nhân bàn nhau xuống vùng đồng bằng, tiếp tục dày công khai phá, quy dân lập ấp, dần dần hình thành làng mới, đặt tên là Minh Châu. Đến triều vua Minh Mạng, do kỵ húy nên làng đổi tên thành Quan Châu, nghĩa là Viên ngọc của nước nhà. Về sau, lại đọc thành Quang Châu, là địa danh hành chính hiện nay, cũng có nghĩa là Viên ngọc sáng.

Dù tên làng có thay đổi qua các thời kỳ lịch sử, nhưng nền nếp văn hóa làng vẫn nguyên vẹn như xưa, được duy trì qua các lễ lạt ở đình làng, nhà thờ Tiền hiền, miếu âm linh. Ông Huỳnh Tiếp, 93 tuổi, kể rằng nhà thờ Tiền hiền ban đầu làm bằng tranh tre, về sau mới dựng sườn gỗ, xây tường vôi, lợp mái ngói âm dương. Làng trích ra hơn mẫu ruộng cho đấu giá, ai trúng thì được canh tác, lấy tiền tổ chức các lễ cúng kiếng ở đình làng, nhà thờ Tiền hiền, miếu âm linh. Qua thời gian, đình làng và miếu âm linh bị hư hại. Năm 2019, làng cho trùng tu miếu âm linh với kinh phí gần 300 triệu đồng, sát bên chùa Quang Châu.

Riêng nhà thờ Tiền hiền vẫn còn giữ nguyên kiến trúc cổ xưa với 3 gian, 3 lòng, gồm: tiền đường hậu tẩm, hai bên tả hữu là hành lang có mái che. Mái ngói âm dương cùng với hình tượng lưỡng long tranh châu đượm màu thời gian. Các câu đối xưa cũng đã phai nhạt sắc màu.

Ông Đỗ Thanh Tân, Trưởng phòng VH-TT huyện Hòa Vang, cũng là một con dân làng Quang Châu, nhận định: “Nhà thờ Tiền hiền là nơi thờ tự những bậc tiền nhân, đồng thời là công trình kiến trúc cổ, là nhân chứng của quá trình phát triển, thể hiện quá khứ - chiều sâu văn hóa của một làng và rộng hơn là một vùng, một dân tộc. Việc bảo tồn, phát huy giá trị các công trình kiến trúc cổ là hết sức cần thiết, thể hiện sự trân trọng những gì ông cha để lại, đồng thời lưu giữ vốn quý cho các thế hệ mai sau. Nhà thờ Tiền hiền Quang Châu có kiến trúc rất độc đáo, phản ánh rất rõ điều kiện kinh tế của làng thời đó, có tiền mới làm được”.

Tết rồi, chư phái tộc Tiền hiền làng Quang Châu đồng phát tâm trùng tu nhà thờ Tứ tộc Tiền hiền làng trên tinh thần giữ nguyên hiện trạng, lợp lại mái ngói, dựng lại các hoa văn, họa tiết,... Ngày mồng 5 tháng 2 âm lịch vừa rồi, mọi người về nhà thờ Tiền hiền dâng lễ tế Xuân, cầu mong tiên tổ phò hộ cho con cháu được tròn nguyện ước…

NHƯ HẠNH

 

;
;
.
.
.
.
.