Sáng tác
Mắt đảo
Một ngày một đêm ở đảo là thời gian quý báu với tôi. Ba năm rồi không nguôi nhớ đảo.
Lần đầu ra đảo, tôi từ rừng về biển không khỏi ngạc nhiên xúc động. Chặng đường bốn tiếng đồng hồ, con tàu trở nên nhỏ nhoi trước mênh mông biển trời. Câu chuyện giữa chúng tôi và các chiến sĩ gần lại; chuyện đất liền, chuyện sống trên sóng cứ chao theo cánh sóng. Đâu đây đã có người say sóng, loạng choạng. Hỏi, cảm giác thế nào, có giống với say ô-tô không? Trả lời, ô-tô lắc ngang, tàu biển thẳng đứng cao vút rồi lại hạ thấp trong tích tắc, say mà thích… cũng lạ.
Minh họa: HOÀNG ĐẶNG |
Cái lạ của biển chưa dừng ở đó, sau thời gian biển và người “làm quen” xong là những trò vút bay, nhào lộn của những chú cá chuồn. Ngay trước mũi tàu, song song mạn tàu… nếu không có tiếng máy nổ, tiếng sóng thì chắc chắn sẽ nghe được âm thanh vù vù của động cơ động vật. Mắt cá mắt người gặp nhau, chào nhau. Bọn cá chuồn múa hay dáng đẹp, chắc là đại diện bao nhiêu xóm làng thủy cung đang ngẩng đầu lên trông theo, kiểu như tiếp viên biển vui mừng được đón các đồng chí đến thăm, không nhân dịp nào cả. Vui thế chưa hết, lại tiếp tục hải âu. Đàn lượn đằng trước, đàn hộ tống đằng sau, mấy con lên hẳn khoang tàu. Chúng tôi cười, cũng giơ tay bắt, tỏ ý thân thiện.
Đảo đón chúng tôi từ ngoài đường ngoài cổng như thế. Giờ vào “nhà”, nắng, gió và cát là ba thứ luôn hào phóng. Nắng như tất cả đều làm bằng mặt trời. Gió như tất cả đều sinh ra từ ào ào. Cát như tất cả đều thiếu nó. Chúng tôi đi trong nắng gió cát, vị mặn của biển cứ lan lan. Cây trên đảo không đủ bóng cho một khoảng dịu. Cao có bàng, loài bàng quả vuông đã nhiều người biết. Tại sao nó lại vuông mà không tròn như bao quả khác. Chúng tôi đã hỏi nhau dưới tán cây linh hồn của đảo. Câu trả lời chung được mọi người nhất trí là: Đảo bốn bề bão giông, sinh ra bàng bốn mặt phẳng, như con mắt 3600 dõi xa, không một giây một phút buông lơi. Theo ý bàng, những cây khác cũng chắt chiu, vươn mình trong khắc nghiệt. Bên lối đi dứa dại, quả vàng rực to gấp bảy tám lần dứa thường. Và dừa, không một lá nào lành lặn, tơ tướp bàng bạc để thân cao lên, để những chùm quả đang tích nước ngọt ngào. Rồi rau dền, ngót, mùng tơi được quây những tấm bạt để chống cát, liên tục gồng mình trong từng đợt gió, cát như những viên đạn sắt. Hiếm hoi những lúc trời yên, cảm giác cái màu xanh rất đơn giản kia phải thật khẩn trương, vội vàng mà xanh.
Buổi chiều, chúng tôi đi thăm các ngư dân. Vào mấy nhà, gọi to mãi chả có ai thưa. Ra bờ biển, từng nhóm, từng nhóm mươi người phụ nữ, người già đang ngồi, tất cả cùng một hướng mắt ra khơi. Tôi lặng lẽ ngồi vào sau một nhóm, định bụng cứ theo họ rồi sẽ biết họ. Biển xa mù mịt khoảng không, sau đấy là gì, trong đầu những ngư dân đang thấy gì… Tôi không hiểu nhưng cũng lờ mờ đoán ra, họ đang mong chờ, hy vọng một cái gì khác; chí ít là một con thuyền hay cột sóng dâng cao cũng được. Tôi đã chụp khoảnh khắc ấy, sau này xem lại mới ngẫm ra rằng, biển khơi là thế trong mênh mông là bất trắc, trong bờ ngóng xa khơi, xa khơi hướng về đảo.
Đấy là mắt đảo. Từ ngọn hải đăng cao vót, quả bàng vuông, những loài cây loài cá bền bỉ chắt chiu kiên trung như người… đến những người lính, người dân hằng ngày hằng giờ vượt lên trên sóng. Đảo xa thân thương, gần lắm, phần máu thịt của tôi của tất cả mọi người.
NGUYỄN ANH DŨNG