Khi bộ phim Đàn trời phát sóng trên kênh VTV1 vào tháng 4-2012 và thu hút khán giả, cái tên Cao Duy Sơn được nhắc đến nhiều. 7 năm sau khi tác phẩm ra mắt, nhà văn Phạm Ngọc Tiến mới chuyển thể tiểu thuyết này thành kịch bản phim truyền hình.
Nhà văn Cao Duy Sơn và Cảnh trong phim Đàn trời. |
1. Cuối năm 2012, sau khi bộ phim Đàn trời trở thành đề tài bình luận của báo chí với những lời khen - chê trái chiều, tiểu thuyết của Cao Duy Sơn được NXB Hội Nhà văn và Công ty TNHH sách Phương Nam in lại (bản in đầu xuất bản năm 2006). Điều đó minh chứng 36 tập phim dưới bàn tay của đạo diễn Bùi Huy Thuận với cấu tứ khá chặt chẽ đã để lại ít nhiều xúc cảm cho người xem mặc dù vẫn còn mắc khá nhiều lỗi thường thấy ở các phim Việt. Tác phẩm chính luận hiếm hoi giữa lúc truyền hình đầy ắp phim giải trí nhàn nhạt nhận giải vàng tại Liên hoan phim truyền hình toàn quốc lần thứ 32 vào ngày 22-12-2012 ở Nghệ An.
Để hoàn thành Đàn trời, nhà văn Cao Duy Sơn phải viết trong 4 năm với nhiều trăn trở. Sức nặng của Đàn trời chính là những trải nghiệm thực tế, tâm huyết và sự dũng cảm của một ngòi bút. Tác phẩm vẽ nên bức tranh đầy mảng tối của chốn quan trường đầy cạm bẫy, trong đó một số lãnh đạo biến chất câu kết với các doanh nhân năng lực ít, thủ đoạn nhiều. Đàn trời còn khắc họa hình ảnh những người làm báo chống tiêu cực, sẵn sàng chấp nhận trả giá để tìm ra sự thật, bảo vệ lẽ phải cũng như chất thơ trong cuộc sống của người miền núi.
2. Tiểu thuyết Đàn trời nhận được giải A của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2007 và dường như Cao Duy Sơn rất có “duyên” với các giải thưởng. Nhà văn sinh trưởng tại Cao Bằng hiện là tác giả của 5 tập truyện ngắn, 6 cuốn tiểu thuyết và 6 giải thưởng văn chương. Hầu hết các tác phẩm đều bàng bạc vẻ đẹp không gian của núi rừng bởi cái “chất Tày” đã ngấm vào máu xương ông dù bao nhiêu năm ông sống giữa phố phường Hà Nội đông đúc.
Năm 2008, khi biết tin Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng cho Ngôi nhà xưa bên suối (NXB Văn hóa dân tộc, 2007), Cao Duy Sơn bất ngờ. Rồi năm 2009, tác phẩm này đoạt giải thưởng Văn học ASEAN, ông càng bất ngờ hơn. Bởi lẽ, ông hiểu mình rõ nhất và biết rằng quanh mình còn biết bao nhà văn với bao nhiêu cuốn sách khác. “Mình vẫn tâm niệm, viết văn là sự đối thoại với chính mình, giải phóng năng lượng bản thân chứ không chăm chăm tìm sự nổi tiếng và đoạt giải thưởng. Văn học với mình là việc phải làm, một cách tự nguyện, chứ không ai bắt ai ép”, Cao Duy Sơn nói.
Ngôi nhà xưa bên suối gồm 7 truyện ngắn được ông viết giữa xôn xao phố xá, giữa khoảng nghỉ của những trang tiểu thuyết, thậm chí bị bạn bè “đặt hàng” để in báo. So với các tập truyện đã in, ngay cả với tập Những chuyện ở lũng Cô Sầu từng được tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1999 thì Ngôi nhà xưa bên suối là tập sách mà Cao Duy Sơn hài lòng nhất.
Khi đặt bút viết một truyện ngắn hoặc khởi đầu cho một tiểu thuyết, Cao Duy Sơn thường đắn đo, thậm chí lúng túng. Sau mỗi cuốn sách ra đời và mỗi giải thưởng, ông lại càng thấy mình cần phải thận trọng hơn với trang viết. Ông muốn mỗi cuốn sách mới lại là thử nghiệm của riêng ông. Có lẽ qua rồi cái thời thích ra sách, thích sách dày, Cao Duy Sơn đã tự khắt khe, thận trọng với chính mình. Nhưng ngay cả khi đã nghiêm khắc với bản thân, ông cũng đủ tỉnh táo để nhận rằng, tập sách ấy chưa phải là ngôi sao sáng của làng văn Việt Nam, và đó cũng chưa phải là ngôi sao sáng nhất của chính mình. “Cái hay nhất vẫn là cái mình chưa viết ra được”, ông chiêm nghiệm.
3. Nhà văn Cao Duy Sơn kể: “Tháng 4-1984, lần đầu tiên mình được tham dự trại sáng tác do Hội Văn nghệ Tuyên Quang và tuần báo Văn nghệ tổ chức tại thị xã Tuyên Quang. Lúc đó, mình đang làm việc ở Sở Văn hóa-Thông tin tỉnh Cao Bằng. Tình yêu của mình với văn chương thì có, nhưng văn chương là gì, truyện ngắn là như thế nào, mình vẫn mơ hồ lắm. Nhưng được dự trại sáng tác thì cũng rất phấn khởi rồi. Hôm đầu, các trại viên phải trình bày đề cương sẽ viết gì. Đến lượt mình, mình chợt nhìn thấy một người đàn ông nhỏ bé nhưng ánh mắt rất sáng. Đó là nhà văn Nguyễn Thành Long, người nổi danh với truyện Lặng lẽ Sapa. Mình cảm thấy run. Ông nhắc: “Cậu trình bày đi”, mình lại càng run hơn. Mình không có gì để trình bày cả, mình biết trình bày cái gì bây giờ. Nhưng rồi mình vẫn cố gắng để trình bày những gì đang nghĩ. Mình nói một lúc, thì “ông mắt sáng” bảo: “Cậu trình bày kịch bản điện ảnh đấy à? Thôi, ngay cả đề cương còn không viết được thì viết văn làm gì. Cậu về đi”.
“Ông mắt sáng” dứt lời, mồ hôi mình toát ra. Mình cảm thấy bẽ bàng, xấu hổ, ngượng ngùng. Mình đã định xách tay nải ngược về Cao Bằng mà sống, nhưng rồi có mấy người động viên và mình quyết định ở lại”.
Nhà văn Cao Duy Sơn cho biết, câu chuyện đó trở thành bài học cho ông, để thấy rằng những gì ông biết về văn chương còn quá non kém. Người ta không thể biến văn chương thành trò chơi, thành sự giải trí linh tinh được. Ở lại trại, ông ngấm ngầm học hỏi và chuẩn bị, cố gắng để viết ra truyện ngắn đầu tiên theo lối nghĩ của mình. Ông âm thầm viết, không nói với ai, cũng không cho ai đọc trước, sửa đi viết lại tới 14 lần, cuối cùng cũng xong. Đó là truyện Dưới chân núi Lục Vèn. Đến ngày nộp tác phẩm, ông nộp rồi mà vẫn lo lắng lắm. Hôm sau, mới 5 giờ, “ông mắt sáng” Nguyễn Thành Long gõ cửa phòng. Ông đứng sững trước cửa nói: “Giỏi lắm, giỏi lắm…”. Rồi sau đó khi tổng kết trại viết, truyện này được biểu dương. Nhà văn Lê Lựu mang truyện ngắn của ông in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. “Đó là truyện ngắn đầu tiên, kỷ niệm với nghề viết mà mình không thể quên”, Cao Duy Sơn kể.
4. Cuốn sách đầu tiên ghi danh Cao Duy Sơn là tiểu thuyết Người lang thang (NXB Hội Nhà văn, 1992). Cao Duy Sơn nói sở dĩ hồi đó ông quyết định viết tiểu thuyết là bởi sau khi đã viết được một số truyện ngắn và được in trên các tạp chí văn chương, ông như được kích thích, được tiếp lửa. Nhưng Cao Duy Sơn nhận ra rằng, những truyện ngắn mình viết đều quá dài, nó như có dung lượng của tiểu thuyết nên ông muốn thử sức mình một lần nữa.
Năm 1989, Cao Duy Sơn tham gia học Trường viết văn Nguyễn Du. Tại đây, tiểu thuyết Người lang thang ra đời. Nhưng với tiểu thuyết này, Cao Duy Sơn vẫn còn nhớ, khi chỉ còn 2-3 chương nữa là kết thúc, ông đã quyết định viết lại theo một cách mới, với những lối rẽ mới cho nhân vật. Điều thú vị là từ cuộc viết lại này ông “bắt tay” với sự say mê. Ông viết không thấy cực nhọc, viết trong niềm phấn hứng.
Cao Duy Sơn có thể chậm, có thể rề rà trong nhiều thứ, nhưng khi nói chuyện về Cao Bằng - mảnh đất Cô Sầu của mình, ông nói nhanh, say sưa và đầy ắp những câu chuyện. Xa Cô Sầu gần 40 năm, nhưng cứ vài tháng một lần, Cao Duy Sơn lại về thăm quê - nơi có gia đình, có bạn bè của ông. Và về đó, ông lại được nghe những câu chuyện sống động của những người quê ông.
Cao Duy Sơn đã viết hàng ngàn trang sách về vùng đất Cao Bằng. Nhưng ông bảo, vùng đất ấy còn quá nhiều chuyện, quá nhiều điều mình chưa thể khai thác được. Có lẽ đến chết vẫn chưa thể khai thác hết được. Ông cũng thừa nhận có thể đó là do ông chưa đủ tài năng để thể hiện.
Nhưng lại có người đã “tư vấn” ông nên chuyển sang viết về một đề tài khác, như Hà Nội chẳng hạn. Viết mãi về vùng đất của mình, với những phận người ít người biết tới cũng dễ thành nhàm. Điều đó khiến Cao Duy Sơn phải suy nghĩ. Trong ông xuất hiện cảm giác như là sự hẫng hụt. Ông đã hỏi lại tôi rằng, có nên chuyển hẳn sang một đề tài mới? Tôi đã nói với Cao Duy Sơn rằng, vùng đất Cô Sầu đó của ông là nơi một người “rất Tày” như ông đã hiểu, đã có quá nhiều trải nghiệm, vậy thì tại sao lại phải cố tìm cố hiểu một vùng đất khác, trong khi ngoài tài năng, thời gian sống của một người có hạn. Mỗi người viết, nếu tạo ra được “đặc sản” của riêng mình, thì đã là điều quý cho văn học.
Bởi với tôi, dù sống ở đâu, Cao Duy Sơn vẫn là người đàn ông của lũng Cô Sầu.
NGUYỄN THANH BÌNH