.
Chuyện xưa xứ Quảng

Cửu Cai vượt ngục

.
Trần Hoành hiệu là Phước Bình, người làng Phước Bình, huyện Quế Sơn (nay là xã Quế Lộc, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam). Ông làm đốc công ở mỏ than Nông Sơn nên thường được gọi là Cửu Cai.

Mô tả ảnh.
Khu biệt giam ở nhà tù Côn Đảo, nơi giam những tù vượt ngục. (Ảnh Internet)
 
Năm 1904, ông bỏ việc ở mỏ than Nông Sơn tham gia phong trào Duy Tân, làm thầy giáo dạy Pháp văn và thể dục tại các trường duy tân trong tỉnh. Để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân, theo yêu cầu của Phan Châu Trinh, ông đứng ra mở trường Phước Bình ở gần đèo Le thuộc huyện Quế Sơn. Trường nằm cạnh làng Trung Lộc rất gần với căn cứ Tân tỉnh của quân Cần Vương do Nguyễn Duy Hiệu thành lập.

Năm 1908, phong trào Duy Tân phát triển mạnh, đỉnh điểm là cuộc dân biến với các cuộc biểu tình cự sưu kháng thuế nổ ra khắp các tỉnh miền Trung. Thực dân Pháp và Nam triều đổ tội cho các nhà yêu nước nên đàn áp dã man phong trào. Một loạt các nhà duy tân như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện, Nguyễn Thành, Lê Cơ... bị bắt bị đày ra Côn Đảo hoặc Lao Bảo. Trần Hoành cũng bị truy lùng, ông bỏ trốn nhưng cuối cùng bị bắt và giam ở nhà lao Nghệ An. Năm 1912, ông vượt ngục nhưng không may bị bắt lại, bị kêu án chung thân đày ra Côn Đảo. 

Ra Côn Đảo được 6 năm, ông tìm cách vượt ngục lần thứ hai, vào khoảng đầu năm 1918. Theo Huỳnh Thúc Kháng, vào thời đó việc vượt ngục Côn Đảo là điều vô cùng khó khăn vì hòn đảo bốn bề đều là biển bao bọc, cách đất liền nơi gần nhất (cửa sông Hậu) 45 hải lý (độ 83,3km), lại được canh phòng rất cẩn mật. Người tù lại khó tìm và khó cất giữ các vật dụng cần thiết để vượt biển như phương tiện để đốn cây, bứt dây làm bè; phương tiện để đựng nước ngọt, cơm khô, hộp diêm. Mặt khác muốn trốn phải có 4, 5 người cùng đi mới có thể khiêng bè thả xuống biển được. Việc vượt ngục cũng rất nguy hiểm trăm bề: Chịu đói chịu khát, sóng to gió lớn, có khi làm mồi cho cá, có khi bị bắt trở lại và bị hành hạ đủ kiểu. 

Cuộc vượt ngục của Cửu Cai Trần Hoành đã được Huỳnh Thúc Kháng ghi trong Thi tù tùng thoại: “Nguyên Kim Đài, Hy Cao và Cửu Cai đều là án chung thân, cái ngày mãn về đã không có mà cái ngày ân xá cũng chả biết là ngày nào, nên hoài bão chí trốn đã sẵn. Nhân vài năm được ở ngoài, người làm thợ may, người làm đồi mồi có chắt mót được ít tiền mới sắm được tài liệu và thuê người đốn cây làm bè, mưu cùng ba người lục tỉnh làm việc mạo hiểm ấy” (trang 213).

Cũng trong tác phẩm trên, Huỳnh Thúc Kháng ghi lại lời Cửu Cai kể về việc vượt ngục: “Sau khi xuống bè nhờ gió ra khơi, rồi lênh đênh trên mặt biển, trên trời dưới nước, chiếc thân như cánh bèo tha hồ gió sóng đưa đi đâu thì đưa, trải 5-6 ngày đồ ăn vẫn còn, không đói lắm nhưng nước ngọt đem theo đã gần kiệt phải hạn chế, chỉ ngậm từng ngụm để thấm giọng chứ không ai được uống nhiều nên nghe khát khó chịu. Nước biển mặn vẫn không uống được nhưng mỗi lần nghe khát, hai tay nắm thành bè nhúng mình xuống nước cho ướt cả thì nghe thơ được chục phút, nửa giờ, hễ khát thì làm như thế để dành nước ngọt lại vì đã 4-5 ngày mà trời biển mênh mông chẳng thấy gì cả. Sáu anh em trên bè ai nấy đều tuyệt vọng nằm xuôi tay chưn, tính chắc làm mồi cho cá mập chớ chả mong gì cả.

 “Đến ngày thứ 6 vừa tảng sáng, trông thấy núi và đất liền cách xa mình chừng 1 cây số. Ôi thôi ai nấy đều chổi dậy, kẻ chèo người chống, dầu khí lực đã kiệt mà sức mạnh ở đâu đưa đến, ai nấy đều làm việc rất hăng hái. Khốn nỗi càng gần bờ bao nhiêu thì sóng cứ xô ra bấy nhiêu. Mãi tự buổi mai tới buổi chiều mà không vô được. Trong lúc thấy cái đường sống đã ở ngay trước mắt mà không sao đi đến, mong thấy có người trong đất gọi cứu mà không thấy ai. Sau mệt quá, nghỉ một độ lâu rồi cả 6 người cùng nhau chống một hồi, vào tận bờ được, ai nấy như con mèo đói... Khi ghé vào một xóm xin nước uống mới biết đó là làng..., huyện... thuộc tỉnh Bình Thuận...”.

Cửu Cai kể tiếp chuyện bị bắt lại: “Tôi vào Nam làm thầy dạy học giả buôn trầm, quế, nay đây mai đó, thỉnh thoảng có gặp người quen. Một bữa trọ nhà tên khách nọ. Họa đâu đưa đến, đêm đó có cảnh sát và ông Cò tới xét a phiện hay rượu lậu gì đó thấy tôi người lạ hỏi, tôi khai người Trung Kỳ, bèn túm luôn đem về bót, rồi giải về Trung Kỳ. Khi tàu đến Tourane lên Tòa bảo người nhìn, tôi biết không chối khỏi, bèn khai thiệt tù trốn ở Côn Lôn (tức Côn Đảo – ĐNCT). Thế là giải tôi lại Côn Lôn”. (Sđd trang 214-215)
 
Năm 1925, Cửu Cai Trần Hoành được giảm án và được trả tự do.

Khi báo Tiếng Dân được thành lập, ông đã ra Huế cộng tác mật thiết với Huỳnh Thúc Kháng. Ông là cánh tay mặt của Huỳnh Thúc Kháng, phụ trách kỹ thuật cho nhà in của báo Tiếng Dân, một lĩnh vực ít người biết vào thời đó.

Cũng trong năm 1927, tại Huế, dù bị thực dân Pháp theo dõi rất gắt, ông vẫn tham gia vào việc thành lập Tổ chức Phục Việt (sau đổi thành đảng Tân Việt) do Lê Văn Huân - bạn tù với ông và Huỳnh Thúc Kháng ở Côn Đảo - lãnh đạo.

Ông mất năm 1936 tại Huế.

Noi gương ông, nhiều nhà cách mạng khác đã cưỡi sóng gió vượt khỏi nhà tù Côn Lôn, tạo nên truyền thống vượt ngục hào hùng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.

LÊ BÌNH TRỊ
;
.
.
.
.
.