.

Lấy nói thẳng làm ưu thế

.

Lý giải tính hay cãi của người Quảng Nam phần lớn các ý kiến tập trung vào 3 quan điểm. Thứ nhất, đây là nơi có môi trường sống không dễ dàng, thậm chí khắc nghiệt, mùa hè thì nóng bức, mùa mưa thì bão lụt, con người phải mạnh mẽ lắm mới tồn tại được, lâu ngày thành thói quen, tính cách dữ dội. Thứ 2, đây là nơi lưu đày các tội đồ của triều đình, là nơi tụ hội của dân tứ chiến, đầu trộm đuôi cướp. Chính cái tính cách mạnh mẽ dữ dội của họ đã truyền lại cho con cháu mà thành nên tính cách quyết liệt của người Quảng hôm nay. Thứ 3, đây là đất của người Chăm, mà trong lịch sử người Chăm được Sử ký toàn thư ghi lại là họ luôn cướp phá vùng ven biển. Trong các nghiên cứu của các học giả phương Tây thì người Chăm giỏi nghề cướp biển (*) và trong sự giao lưu, tiếp biến văn hóa người Việt tiếp thu nhiều thứ trong đó tiếp thu cả tính cách “ăn sóng nói gió” này. Đặc biệt tính cách mạnh mẽ này đã được Nguyễn Trãi nói đến trong Dư địa chí: “Dân vùng này nhiễm tục cũ của người Chiêm, tính tình hung hãn, quen khổ sở”.

Một bức tranh minh họa trong sách của J.Barrow, được vẽ năm 1793 ở vịnh Đà Nẵng: Một nhóm người Việt bên cạnh một nhóm người Chăm, và dường như chính điều đó đã tạo nên tính cách, bản sắc người Quảng Nam.
Một bức tranh minh họa trong sách của J.Barrow, được vẽ năm 1793 ở vịnh Đà Nẵng: Một nhóm người Việt bên cạnh một nhóm người Chăm, và dường như chính điều đó đã tạo nên tính cách, bản sắc người Quảng Nam.

Có lẽ ngay bản thân những người nêu lên các giả định này cũng cảm thấy có gì đó không ổn, Quảng Nam chưa phải là nơi có môi trường khí hậu khắc nghiệt nhất mà phải là Quảng Trị, Quảng Bình; thế nhưng ta thấy, những vùng đất này người dân khá lạc quan, hài hước, điển hình như chuyện trạng Vĩnh Hoàng là ví dụ.

Còn nếu như đây là cá tính của những tội nhân lưu đày từ năm, sáu trăm năm trước thì lẽ ra quê hương bản quán của họ là vùng Thanh Nghệ nơi sản sinh ra họ mới là nơi mạnh nhất của tính cách đó chứ? Và nữa, những nơi lưu giữ tội nhân lưu đày, hoặc tập hợp dân tứ chiến trong lịch sử như vùng đất phương Nam hoặc miền Tây Nam Bộ sao lại không có tính cách này?

Nếu đây là sự kế thừa tính cách của người Chăm thì cớ sao vùng Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên lại không nổi bật tính hay cãi này trong khi các vùng đất này mới chính là nơi người Chăm sinh sống và chuyển sang Việt muộn hơn rất nhiều so với Quảng Nam?

Trong công trình “Có 500 năm như thế - Bản sắc Quảng Nam từ góc nhìn phân kỳ lịch sử Nam tiến” tôi cũng đã có nói qua chuyện này nhưng không có dịp đi sâu, nhân dịp này xin được nói kỹ hơn, thử đề nghị một hướng tiếp cận khác; đó là cần phải nhìn vấn đề ngay trong cái thời gian đằng đẳng 500 năm ấy.

Đã thực sự có ngót 500 năm hai tộc người Chăm - Việt sống cạnh nhau. Tôn trọng, hòa hiếu hay không tùy theo từng thời điểm, nhưng chắc chắn rằng, trong suốt 500 năm đó, bất cứ dân tộc nào nếu buông lỏng sự giữ gìn bản sắc của mình đều sẽ bị tiêu vong.

Có nhiều bằng chứng cho thấy đến năm 1802 (khi Gia Long lên ngôi) ở Đà Nẵng, Quảng Nam vẫn còn rất nhiều những làng người Chăm sinh sống, thậm chí họ vẫn bảo lưu được giọng nói, y phục của mình, mặc dù đã mất chủ quyền từ 500 năm trước. Điều đó có nghĩa là họ, người Chăm, đã ý thức về bản sắc văn hóa của mình và họ quyết bảo lưu, giữ gìn nó. Hãy thử hình dung họ bảo lưu bằng cách gì nếu đó không phải là thái độ phê phán gay gắt những gì khác mình?

Những khảo sát ban đầu cho thấy suốt một thời gian dài các làng Chăm - Việt ấy đã cài da báo, sống xen kẽ nhau, làng này cách làng kia một cánh đồng, một cái bàu, hay thậm chí một con đường làng chỉ lọt chiếc xe bò! Có nghĩa là, mở mắt ra đồng họ đã chạm nhau; hai thửa ruộng chỉ cách nhau một con đường hay bờ ruộng nhỏ... có nghĩa là sự va chạm là dai dẳng trong suốt thời gian dài ấy.

Có nhiều bằng chứng về sự xung đột hai nền văn hóa này. “Chiếu bình Chiêm” có những câu “Bọn búi tóc dùi”, “Nó cấm dân ta mổ thịt” ... Tại sao lại cấm mổ thịt? Vì người Chăm thờ bò, trong khi người Việt thì mổ bò khi cả làng ăn hội (ồn như mổ bò). Trong khi người Việt bảo người phụ nữ phải tam tòng tứ đức phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng thì người phụ nữ Chăm nắm hết quyền hành gia đình, cởi áo phơi ngực ra mà nhảy múa ngày lễ hội. Khi người Việt bảo Trời, Phật mới là tối thượng thì người Chăm bảo Siva, Visnu mới là đấng tối cao... Cứ vậy họ đã cãi nhau suốt cái thời gian hơn nửa thiên niên kỷ ấy.

Ai cũng như phải cố trung thành với niềm tin của mình, cố khẳng định mình đúng, có sai phè ra cũng phải cãi cố cho được là mình đúng. Đây không phải chỉ là tính bảo thủ mà là sự sống còn của bản sắc văn hóa, sống còn hay diệt vong của một dân tộc! Cãi mới tồn tại! Không cãi, lịch sử Đàng Trong, giọng nói, tính cách người Quảng có lẽ đã khác!

Lập luận trên hữu lý nhưng cũng như các lập luận khác, nó không thể chứng minh. Nhưng trên cơ sở ấy ta có hướng tiếp cận khác. Đó là, sau khi khảo sát giọng nói người Quảng Nam, sau khi kết luận được “giọng nói người Quảng Nam chính là giọng của người Chăm nói tiếng Việt” thì chúng tôi chú ý đến vốn từ vựng của người Quảng, và chợt nhận ra là họ có một vốn từ vựng nghèo nàn một cách trầm trọng !

Không kể danh từ vật nào tên nấy, không thiếu; nhưng với tính từ, trạng từ, nhất là số từ biểu lộ tình cảm thì vô cùng thiếu và ít.

Những câu người Bắc, người Khu bốn cũ diễn đạt một cách đơn giản, dễ dàng, sắc thái biểu cảm sinh động như:  Điêu; quá đáng; tinh tướng; lấp lánh; hão; háo; vẽ chuyện; ra phết, đanh đá... thì người Quảng Nam hoàn toàn không biết đến những từ này! Và xem một người Quảng Nam diễn đạt vất vả một chuyện gì đó ta hiểu họ đã phải thay sự diễn đạt đó bằng những câu khái quát chung như: “Cái này cái nọ”, “nói chung là”, “cứ rứa”... được xuất hiện với tần số khá nhiều, trong khi người miền khác lại không dùng đến. Chính người Chăm nói tiếng Việt nên vốn từ của họ không đầy đủ, nhất là các tính từ, trạng từ và câu biểu cảm, như người Việt.

Phải chăng, chính sự diễn đạt khó khăn đó đã tạo nên tính cách? Chính vì không thể diễn đạt được các sắc thái tình cảm tinh tế, không nói được điều cần nói một cách bay bổng nhẹ nhõm, người Quảng Nam đã lấy sự chân thành, bù trừ? Chính vì không diễn đạt được, không biểu cảm bóng bẩy được nên người Quảng Nam lấy nói thẳng làm ưu thế, lấy thẳng thắn trung thực làm sở trường để chống lại cái sở đoản trong văn hóa diễn đạt? Mà nói thẳng thì hay gay gắt, chân thành thì hay giận, trung thực thì hay cáu vì đòi hỏi ai cũng trung thực như mình. Tất cả những tính cách ấy đều dẫn đến một thái độ tương đối căng thẳng trong cuộc sống. Và hay cãi cũng là thuộc tính tất yếu của tính cách này.

Cũng như các giả định khác, có thể đúng, có thể sai, nhưng chí ít giả định này là có thể chứng minh đong đếm được nếu ta có được công trình về vốn từ của người Quảng cùng với công cụ tâm lý học tham gia. Và khi mà có thể chứng mình được, kiểm chứng được thì nó mang tính khoa học cao hơn các giả định khác.  

HỒ TRUNG TÚ


(*) Đây là quan điểm khởi đầu từ Massepero trong “Lịch sử Chămpa” từ đầu thế kỷ 20 và nhận định mới nhất của Philippe Papin trong “Việt Nam, hành trình một dân tộc”, NXB Thời mới, 2001, tr. 21-22): “Bành trướng không được, địa hình lại không thuận lợi cho thống nhất cũng như cho nông nghiệp, người Chăm mau chóng quay ra biển và trở thành những hải tặc đáng gờm...”.

;
.
.
.
.
.