Đà Nẵng cuối tuần
Làng quê trong ký ức
Rời khỏi làng quê đã bao năm dài đằng đẵng, thế nhưng hình ảnh về một ngôi làng thân thương, ở đó có lũy tre rợp bóng mát trưa hè, những ngôi nhà mái tranh lúp xúp ẩn hiện bên các vườn cây trái sum xuê vẫn luôn in đậm trong tâm trí tôi.
Tôi sinh ra ở nơi có đủ đầy hình ảnh cũng như những nét đặc trưng nhất của một làng quê Bắc Bộ, đó là cây đa, giếng nước, sân đình... Hơn thế nữa, làng tôi còn có cả một bến sông êm đềm với những con thuyền đưa rước khách, cùng tiếng gọi đò í ới mỗi buổi sớm mai hay hoàng hôn chạng vạng. Với tôi, những năm tháng ấu thơ sống trong vòng tay yêu thương của mẹ cha nơi xóm thôn nghèo khó có lẽ là dấu ấn không bao giờ có thể mờ phai.
Minh họa: HOÀNG ĐẶNG |
Làng tôi có hình tựa như một con rồng, với cái đầu thì hướng về vạt bãi bồi ven sông, còn cái đuôi kéo dài xa tít bên nương ngô mướt xanh. Chẳng vậy mà làng tôi có tên Thăng Long. Theo các bậc tiền bối của làng kể lại thì cách đây mấy trăm năm, khi dân chài lưới trên sông thấy khoảng đất bãi bồi phẳng phiu, màu mỡ đã dừng chân lập làng định cư sinh sống. Mới đầu chỉ có một ít hộ dân, qua thời gian, số hộ dân nhiều lên chiếm hết khoảng diện tích bãi bồi ven sông. Bến đò nằm ở đoạn giữa của làng, nơi ấy cũng có một cái chợ gọi là chợ Bến. Chợ họp cách ba ngày một phiên, là nơi mua bán trao đổi hàng hóa nông thổ sản của các làng trong vùng, cũng như các làng ở bên kia sông mang sang. Những ngày bình thường, bến đò chỉ thưa thớt vài chuyến đưa đón khách qua sông, còn những hôm có phiên chợ, thuyền qua lại tấp nập nhộn nhịp cả một khúc sông. Tôi cũng hay được mẹ cho đi theo ra chợ với nhiệm vụ giúp mẹ trông quang gánh ngoài cổng chợ, để mẹ mải lo bán mua. Mỗi khi mua bán hàng hóa xong, mẹ chẳng bao giờ quên mua cho tôi, khi thì mấy cái kẹo bột, lúc lại mấy cái bánh rán đường, nhiều bữa là túi bỏng ngô nếp thơm phức... Nói chung, mỗi lần theo mẹ đi chợ làng bao giờ tôi cũng được ăn quà thỏa thích. Quà mẹ mua tôi ăn từ chợ, ăn trên đường, về tới tận nhà vẫn còn.
Tuổi thơ tôi còn có biết bao những trưa hè oi ả cùng đám bạn ra vạt sông ở bìa làng để tắm mát. Dòng nước mùa lũ thường dâng đầy, cuồn cuộn chảy nhưng lũ trẻ chúng tôi không sợ chết chìm, bởi đứa nào cũng được người lớn dạy cho tập bơi từ khi mới chập chững biết đi...
Nhịp sống trong ngôi làng tôi thuở ấy luôn thanh bình, êm ả và chỉ nhộn nhịp khi mùa thu hoạch ngô, khoai tới. Người dân quê tôi chỉ trông vào nguồn thu từ những bắp ngô, củ khoai nên cuộc sống đầy gian nan, vất vả. Nhà ai cũng phải căng mình bươn chải để vượt qua những năm tháng khó khăn.
Cuộc sống đang êm đềm trôi đi thì bước ngoặt khiến tôi phải rời xa nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đó là năm tôi vừa hết cấp 2, bố mẹ tôi quyết định đi xây dựng kinh tế mới ở Tây Nguyên, theo chính sách điều động giãn dân của Nhà nước. Làng tôi ngày ấy có tới cả vài chục hộ dân cùng đi vùng kinh tế mới. Chuyến đi có biết bao bùi ngùi nhớ thương giữa những người ra đi và người ở lại. Với tôi, dẫu vẫn còn nhỏ nhưng cũng có vô vàn nỗi nhớ, từ nỗi nhớ bạn bè, trường lớp, thầy cô... cho đến hình bóng của ngôi làng, bến đò, sự nhộn nhịp những hôm chợ làng vào phiên...
Khi tôi trưởng thành, cũng đã vài lần được trở về thăm nơi mình sinh ra và có những năm tháng tuổi thơ đầy ắp kỷ niệm, nhưng làng của tôi giờ đây không còn như xưa nữa, không còn những lũy tre rợp bóng, những nếp nhà tranh đã được thay thế bằng các ngôi nhà mái ngói, nhà tầng cao ráo khang trang, nhất là bến đò xưa không còn cảnh thuyền tấp nập qua lại đôi bờ, bởi xa xa đã có một cây cầu hiện đại nối nhịp bờ vui, với dòng người, xe cộ qua lại ngày đêm tấp nập... Làng quê đã quá đổi thay, đổi thay đến khác lạ, khiến tôi không còn có thể nhận ra hình hài của một làng quê xưa mà ký ức tuổi thơ tôi từng ở đó...
ĐẶNG ĐỨC