Đà Nẵng cuối tuần
Tản mạn về cỏ
Cỏ có tự bao giờ? Tôi đồ rằng, cỏ là thứ thảo mộc xưa nhất, xưa hơn bất cứ loài thực vật nào, xưa hơn cả loài người. Cỏ hiện diện bằng hình hài giản đơn nhưng ẩn dụ biết bao điều kì vĩ…
Những gần gũi mà lớn lao ấy có đâu xa, ngay bên cạnh mình, ở dưới chân mình. Cỏ mọc từ chốn thâm sơn cùng cốc, cỏ tết thành mênh mông bát ngát thảo nguyên, cỏ ngút mắt đồng làng, cỏ len cả vào đông vui phố thị… Cỏ có ở nơi nơi, hồn nhiên, kiêu hãnh.
Người đời thường ví cỏ như những điều thấp hèn, nhỏ bé. Thậm chí nhiều người còn định kiến nặng nề với cỏ khi đặt cạnh nhiều loài thảo mộc kiêu sa. Càng tổn thương bao nhiêu, cỏ lại càng trường tồn bấy nhiêu. Cỏ minh chứng bằng một sức sống mãnh liệt, kiên cường dù phận nhỏ, dáng mềm, vóc thấp. Cỏ sống một cuộc đời không phận số, không lo toan giành giật, không mặc cả thiệt hơn, không giận hờn oán trách. Cỏ hiền lành và tận hiến.
Từ lớp lớp cỏ tranh, cứ đợi mưa về lại tốt tươi như vũ bão, dâng thân mình cho những bền chắc của bao mái nhà miền ngược qua mưa nắng thời gian. Ở cái thời chiến tranh, đói kém, cỏ tranh hóa tro làm muối nuôi nấng bộ đội, buôn làng. Rồi cái bổn phận khiêm nhường ấy lúc khác lại trở thành nhiều vị thuốc quý cho con người chữa bệnh…
Cỏ mỡ, cỏ lác, cỏ gấu, cỏ chỉ, cỏ gừng…, những loài không thân phận ấy sở hữu những cái tên mộc mạc như đất, như làng, như nghĩa tình người quê, hồn quê chân chất. Con heo, con trâu, con bò chỉ ăn mỗi cỏ thôi mà cũng trường tồn qua một kiếp, cho thịt, cho sữa, cho sức kéo bền bỉ qua bao vụ mùa. Cỏ là ân nhân của người nông dân hồn hậu.
Cỏ gà dẻo dai chứng kiến lũ mục đồng lớn lên trên lưng trâu cùng bao trò chơi dân gian, trở thành miền hoài niệm khó phai một thời thơ ấu. Cỏ mật khi khô héo lại tỏa ra mùi hương thơm ngọt, quyến rũ, in dấu bao kỷ̉ niệm thanh xuân của những chàng trai cô gái tuổi hẹn hò, rồi kết tóc, se duyên chồng vợ.
Cỏ lau chấp chới lưng đồi, những cánh hoa theo gió phiêu bồng tới đâu, lại gieo những hạt mầm ở đấy, loang thành cả một đồng hoa. Hoa cỏ lau không hương, đơn sắc, vậy mà đẹp mĩ miều, tạc vào lòng người bao nỗi niềm xuyến xao, say đắm.
Cỏ may vấn vít gấu áo gấu quần, ngỡ bình dị mà vẫn trữ tình, lãng mạn, dệt thêu nên bao cổ tích chuyện tình, ám ảnh khôn nguôi: “Khắp nẻo dâng đầy hoa cỏ may/ Áo em sơ ý cỏ găm đầy/ Lời yêu mỏng mảnh như màu khói/ Ai biết lòng anh có đổi thay” (Hoa cỏ may, Xuân Quỳnh).
Trên thế gian này, không gì nhiều bằng cỏ. Cỏ ở dưới thấp, ăn của đất, uống của trời, chịu bao lời oán than, dẫm đạp của thế nhân vẫn hồn nhiên tươi tốt. Nghĩ về cỏ, lại ngẫm phận người. Trước bao gánh nặng lo toan, bao tị hiềm cuộc sống, giá như người cứ vô tư, bao dung như cỏ. Trước những cay nghiệt của miệng đời, của bao nỗi bất công, giá như người cứ lặng lẽ cống hiến, cứ an yên sống cho trọn kiếp mình thì hay biết mấy.
Để rồi, một ngày về với đất, cỏ lại làm tấm thảm xanh ân cần che chở giấc thiên thu cho những linh hồn không còn phiền muộn, không giành giật, đấu tranh, không oán trách giận hờn. Người lại hiền như cỏ thôi, hồn nhiên, thanh thản!
NGÔ THẾ LÂM