Chính trị - Xã hội
Tuyên ngôn Độc lập - ý chí và sức mạnh của dân tộc, nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh
ĐNO - Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập để tuyên bố với toàn thể quốc dân và các nước trên thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuyên ngôn Độc lập, tuy ngắn gọn (49 câu, với 1.010 từ) nhưng chứa đựng trong đó những nội dung bất hủ, có giá trị trường tồn đối với dân tộc Việt Nam và mang ý nghĩa thời đại sâu sắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. (Ảnh tư liệu) |
1. Đặt cuộc đấu tranh vì nền độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta trong dòng chảy chung vì sự tự do, hạnh phúc cho mọi người, mọi dân tộc trên thế giới; với những cứ liệu đầy đủ về tội ác, sự bất lực và hèn nhát - “quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật” của thực dân Pháp; với những dẫn chứng sinh động về sự bất khuất, chủ nghĩa anh hùng của nhân dân ta khiến cho “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, Tuyên ngôn đanh thép khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”; rằng, “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.
Kiên trì với những tư tưởng bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập, cả dân tộc Việt Nam đã đem “tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững tự do, độc lập dân tộc”.
Những thắng lợi giành được trong các cuộc kháng chiến oanh liệt - chiến thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và trong công cuộc bảo vệ tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội… là những minh chứng hùng hồn sức mạnh của một dân tộc khi đoàn kết lại chiến đấu cho khát vọng chính đáng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Đúc kết cô đọng về lý luận và thực tiễn hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn Dân ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu rằng, Việt Nam sẽ có vinh dự “là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ; góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”.
Trên bình diện toàn thế giới, hai thập niên đầu của thiên kỷ thứ III là một thời kỳ đầy biến động phức tạp. Bên cạnh xu thế lớn là hòa bình, hợp tác và phát triển, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tiếp tục được đẩy nhanh thì chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố, lật đổ, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đơn phương bá quyền vẫn tiếp tục diễn ra căng thẳng, quyết liệt.
Tuy vậy, sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”.
Để phát huy những thành quả đạt được, vượt qua thách thức, tiếp tục hội nhập phát triển, Đại hội lần thứ XIII của Đảng ta đã hoạch định tổng thể các việc cần làm nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu cụ thể và tầm nhìn đến năm 2045 - kỷ niệm 100 năm lập nước.
Sau 35 năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Trong ảnh: Một góc đô thị Đà Nẵng phát triển hiện đại. Ảnh: XUÂN SƠN |
2. Góp phần hiện thực hóa mục tiêu, tầm nhìn trên trong bối cảnh hiện nay theo phương châm "ôn cố tri tân" phải chăng nhân dân ta, Đảng ta cần tập trung giải quyết một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, tiếp tục phát huy sức mạnh dân tộc, sức mạnh chế độ để từng bước hiện thực hóa mục tiêu về một quốc gia phồn vinh, hạnh phúc.
Sức mạnh dân tộc là những yếu tố làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Phát huy sức mạnh dân tộc- nguồn nội lực trong giai đoạn hiện nay phải được thể hiện tập trung thông qua hai yếu tố căn cốt:
Từng bước hoàn thiện thể chế phát triển, đồng thời với nâng cao chất lượng nguồn nhân lực- nguồn lực con người Việt Nam. Hoàn thiện thể chế phát triển thực chất là nâng cao tính khoa học, tính khả thi, tính hợp lý, hợp lẽ, hợp thời trong các quyết sách của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; là bảo đảm hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị và các bộ phận cấu thành.
Đi liền với đó là hình thành đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt là các nhà chính trị - giới lãnh đạo, quản lý đủ đức, tài và điều đó được thể hiện qua việc họ phát huy vai trò, trách nhiệm trong công việc, hình thành được phong cách lãnh đạo, quản lý đáp ứng và thích nghi với nền sản xuất đã có sự thay đổi căn bản ở nền móng- phương thức sản xuất gắn với nền công nghệ mới của thời đại 4.0.
Là tạo môi trường, điều kiện để củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân - tin vào chính mình, dân tộc mình, chế độ mình, “bùng nổ” khát vọng làm giàu và tìm được cách vươn lên chiếm lĩnh tầm cao mới của sự phát triển - từng bước hiện thực hóa mục tiêu, con đường mà Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta đã lựa chọn.
Thứ hai, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng - nhân tố quyết định mọi thành công của cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, “Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân”. Khi trở thành đảng cầm quyền, mục đích, lý tưởng đó không thay đổi mà còn có thêm những điều kiện, sức mạnh nhằm thực hiện hóa. Vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng phải làm cho “dân tin, dân theo”. Đảng lãnh đạo nhưng “quyền hành đều ở nơi dân”, cho nên Đảng “phải đi đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép nhân dân”, phải tuyên truyền, giác ngộ dân chúng để thức tỉnh họ; Đảng phải tổ chức, đoàn kết họ lại thành một khối thống nhất, bày cho dân và hướng dẫn họ hoạt động…
Để làm được điều đó, cấp thiết là “xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân”. Một Đảng “đạo đức, văn minh" là Đảng hội đủ các yếu tố tài năng và phẩm hạnh, đủ sức đoàn kết toàn dân tộc, đưa quốc gia dân tộc hoà nhập, vượt lên trong cuộc đua tranh năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế-xã hội, phục vụ cho những mục tiêu mang tính nhân văn: Vì lao động, vì con người, vì tiến bộ chung của dân tộc và nhân loại.
Thứ ba, thực thi đường lối đối ngoại, vừa mềm dẻo, linh hoạt nhưng có tính nguyên tắc - đặt lợi ích dân tộc ở vị trí tối thượng.
Ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực của đời sống nhân loại. Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế, suy thoái tài nguyên môi trường, dịch bệnh, đặc biệt, những toan tính chiến lược của các thế lực bá quyền, những thoả hiệp nhằm bảo vệ lợi ích giữa các nuớc lớn đang đặt các nước nghèo, các nước kém phát triển vào tình trạng bất lợi, thiệt thòi...
Mặt khác, xu thế liên kết, hợp tác cùng chia sẻ trách nhiệm, quyền lợi trong các vấn đề toàn cầu buộc các quốc gia, dân tộc, các lực lượng cầm quyền ở mỗi nước phải tìm kiếm và thực thi đường lối đối ngoại, vừa mềm dẻo, linh hoạt hơn nhưng vẫn có tính nguyên tắc - ưu tiên lợi ích dân tộc.
Vì vậy, để giữ vững độc lập dân tộc, để tiếp tục phát triển đất nước, lúc này không chỉ tìm các giải pháp khơi dậy các nguồn lực bên trong mà đòi hỏi Đảng ta, nhân dân ta phải nhận thức và tạo lập các điều kiện cần thiết để chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vị thế, vai trò của Việt Nam trong việc xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế thế giới, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết; thúc đẩy các quan hệ quốc tế đã thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định lâu dài; mở rộng những điểm tương đồng, thu hẹp những điểm khác biệt về lợi ích, phấn đấu không để những khác biệt biến thành mâu thuẫn hoặc xung đột.
Đó là cách thức vận dụng nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” góp phần thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập phát triển bền vững.
PGS.TS HỒ TẤN SÁNG