.

Hãm phanh tín dụng bằng cách nào?

Thực hiện chủ trương của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về kiềm chế tín dụng trong 6 tháng cuối năm, nhiều ngân hàng đã nhận chỉ thị không để tốc độ tăng dư nợ vượt quá 25-27%. Tuy nhiên, một số ngân hàng đã xài gần hết chỉ tiêu này trong sáu tháng đầu năm, phần còn lại không bao nhiêu, trong khi từ cuối quý 3 và quý 4-2009 trở đi lại rơi vào cao điểm thời vụ kinh doanh và chuẩn bị dự trữ phục vụ Tết.
 
Đến thời điểm này, nhiều ngân hàng đã rục rịch triển khai phương án thắt hầu bao, hạn chế, thậm chí dừng cho vay tiêu dùng đời sống, tăng cường thu hồi nợ... Trong bối cảnh phần lớn doanh nghiệp Việt Nam vừa mới gượng dậy sau giai đoạn “thắt chặt tín dụng” năm 2008, từ tháng 2-2009 lại được tiếp sức thêm từ chính sách hỗ trợ lãi suất, sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực từng bước khôi phục, có phần khởi sắc, nhưng nhìn chung có thể khẳng định chưa thể vượt qua giai đoạn khó khăn do tác động của ảnh hưởng khủng hoảng tài chính và suy giảm toàn cầu còn kéo dài.

Với đặc thù hoạt động dựa vào vốn vay là chủ yếu, do vậy mỗi khi hệ thống ngân hàng tính chuyện co cụm tín dụng thì nguy cơ hàng loạt doanh nghiệp bị lâm vào cảnh thiếu vốn, sản xuất ngừng trệ, giãn công giảm thợ... chắc chắn sẽ xảy ra.

Có thể khẳng định nguồn vốn ngân hàng có vai trò gần như không thể thay thế đối với sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế, và trong thời gian qua, thành công lớn nhất của chính sách tiền tệ chính là ở chỗ duy trì được nguồn cung ứng tín dụng ổn định với lãi suất phù hợp, thậm chí trong trường hợp không có gói hỗ trợ lãi suất thì rất nhiều doanh nghiệp vẫn thừa nhận có đủ khả năng hoạt động hiệu quả với giá vốn bình quân 10,5%/năm.

Chính vì vậy, mọi giải pháp về tiền tệ tín dụng trong giai đoạn hiện nay suy cho cùng cần phải hướng đến mục tiêu cao nhất là duy trì tính ổn định, không tạo ra hụt hẫng đột ngột về cung cầu vốn, từ đó tạo tâm lý thuận lợi nhiều mặt cho sản xuất kinh doanh.

Ngoài lý do lo ngại lạm phát cao quay trở lại, chủ trương hãm phanh tín dụng cũng nhằm mục đích hạn chế luồng vốn ngân hàng đổ vào các lĩnh vực phi sản xuất, có tính nhạy cảm như bất động sản, tiêu dùng đời sống, chứng khoán... Tuy nhiên, cách thức thực hiện chủ trương này của NHNN vẫn còn  mang nặng dấu ấn hành chính, chủ yếu thông qua các văn bản chỉ thị và tiến hành các đợt thanh kiểm tra trên diện rộng hơn là sử dụng những công cụ điều hành thích hợp.
 
Một loạt mâu thuẫn lớn về quan hệ cung cầu vốn vẫn chưa thể giải quyết rốt ráo. Một mặt NHNN muốn duy trì lãi suất trần thấp để yểm trợ nền kinh tế, thúc ép ngân hàng thương mại chuyển đổi cơ cấu đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, nhưng mặt khác mặt bằng lãi suất tiền gửi ngày càng đội trần, chênh lệch đầu vào đầu ra giảm mạnh, nguồn huy động chậm tăng trưởng, hậu quả trực tiếp là nếu doanh nghiệp càng vay được nhiều vốn hỗ trợ thì áp lực thiếu vốn và thiệt hại tài chính càng đè nặng lên các ngân hàng thương mại, chưa kể cường độ khối lượng công việc tăng lên rất nhiều, thanh kiểm tra liên tục, vô hình trung những ngân hàng tích cực đi đầu trong việc thực hiện chủ trương, chính sách Nhà nước càng bị áp lực căng thẳng nhiều hơn (?).
 
Bên cạnh đó, nếu vẫn thừa nhận sự tồn tại của kênh tín dụng lãi suất thỏa thuận thì về lâu dài, NHNN cũng không có lý do gì ngăn cản các ngân hàng tiếp cận với những lĩnh vực mà họ cảm thấy hấp dẫn, sinh lợi nhanh, cho dù phải đối đầu với nhiều rủi ro ?

Một thực tế hết sức rõ là không nên và không được phép dồn mọi rủi ro tín dụng của nền kinh tế lên bản thân chính sách tiền tệ, buộc nó phải gánh vác nhiều trọng trách quá tầm, mà cần thiết phải phân tán rủi ro thông qua thiết kế hệ thống các chính sách đồng bộ trên nhiều lĩnh vực có liên quan, trước hết nhằm ngăn chặn nạn đầu cơ bong bóng trên lĩnh vực bất động sản, chứng khoán.

Ngân hàng Trung ương cũng cần nhất quán hơn trong việc công bố định hướng tăng trưởng tín dụng để các ngân hàng thương mại chủ động tính toán phương án kinh doanh, tránh đưa ra nhiều chỉ tiêu khác nhau trong khoảng thời gian quá ngắn (Đầu năm: 21-23% - Quý 1-2009: 30% theo chỉ đạo của Chính phủ - Quý 2-2009:

25 - 27%). Những tháng đầu năm, Chính phủ và NHNN liên tục thúc giục các NHTM mở rộng tín dụng, đi kèm với triển khai nhanh gói hỗ trợ lãi suất để tiếp sức và duy trì tăng trưởng kinh tế, nhưng đến thời điểm hiện nay tín hiệu kiềm chế được phát đi khá đột ngột khiến nhiều ngân hàng không tránh khỏi lâm vào thế bị động bất ngờ, mặc dù thanh khoản nhìn chung vẫn ổn định và khả năng cung ứng tín dụng vẫn còn dư địa lớn ?

Trong trường hợp cần thiết, đề nghị NHNN mở rộng công cụ tái cấp vốn để tài trợ thêm nguồn vốn cho những ngân hàng thực hiện tốt chính sách tín dụng đầu tư phát triển sản xuất theo đúng định hướng của Nhà nước, bằng công cụ này có thể giúp quản lý chặt chẽ chất lượng dòng tiền phục vụ nền kinh tế, đồng thời hóa giải bớt tình trạng căng thẳng trên thị trường vốn nếu có phát sinh.

TÂM DÂN

;
.
.
.
.
.