Tiếng rao của bà bán chè xanh vẫn vọng trong ký ức tôi suốt mấy chục năm để thỉnh thoảng, một trưa hè nào đó, trong một thời khắc yên tĩnh hiếm hoi, lại như cất lên giữa cơn khát của tôi. Tôi thèm được như ngày nào, bê từng bát nước chè óng ánh uống ừng ực một hơi. Chè xanh cứ phải uống bằng bát và đúng một hơi. Khi hết khát mới thong thả ngẫm nghĩ. Hoặc chẳng cần ngẫm nghĩ mà cứ hưởng cái khoái cảm mơn man nơi cổ họng, nơi đầu lưỡi, đã đủ để nghĩ đến một thứ nước thần nào đó.
|
Khi đó trông cha tôi thật hạnh phúc. Còn từ chợ trở về bao giờ mẹ cũng cẩn thận bỏ gói chè xanh bọc lá chuối ra trước tiên. Mẹ làm điều đó cũng với một niềm sung sướng kỳ lạ. Mẹ biết bố chỉ mê thứ chè xanh do mẹ kén. Nó là những lá chè hơi ánh một chút vàng tri kỷ, bản lá nhỏ, cạnh có răng cưa, mình dày, bẻ gãy tanh tách. Chúng được hái từ những cây chè lâu năm trồng ở vùng đồi có pha đá ong. Đất đai khắc nghiệt đã làm trước cho con người sự lựa chọn:
cái còn lại là cái quý giá. Loại chè này khi hãm được một thứ nước vàng óng, cho cảm giác quánh, bí ẩn, hương thơm ngậy, vị chát thanh cao; chát - như một triết lý, hợp với mọi loại người. Bậc trí giả ẩn danh uống để tìm tới đại ngã; kẻ chồng chất tâm sự uống để giải phiền, tục nhân uống để giải tỏa cơn nóng bức, khát cháy họng.
Còn các bác thợ cày quê tôi, như một ẩn số vĩnh cửu của kiếp con người và sinh tồn nói chung, uống chè xanh đặc để tìm nguồn sức lực. Chỉ cần ba bát nước - bảo là nước thần cũng không ngoa - có thể cày đến chết trâu cả buổi dưới ruộng trũng.Chè xanh - Cái đơn giản đến tận cùng dung hợp trong cái bí ẩn thuộc về trời đất: sắc màu của nó là sự hòa trộn giữa nóng đỏ (mặt trời) với xanh lạnh (mặt trăng), tạo ra một thứ nước - lửa đầy ẩn dụ.
TẠ DUY ANH