Làng Đan nằm cạnh sông Cày bao bọc những rặng tre ken dày. Thần Hoàng làng là một người chuyên đan sọt nghe nói ngày xưa ông là lính thời nhà Trần dưới trướng của tướng quân Phạm Ngũ Lão học được nghề đan về truyền cho dân làng.
Cứ thế đời này sang đời khác nhưng rồi cũng rơi rụng đi. Lớp trẻ không chịu học nghề, cái nghề đòi hỏi tỉ mẩn công phu, chuốt đi chuốt lại rồi nheo nheo, ngắm ngắm, rồi uốn uốn cong cong cho đến tuổi lưng còng vẫn xoay đi nắn lại cái vành rổ, vành rá. Đêm rã rời nhờ có chút rượu giãn xương cốt nằm mà đau nhức muốn rụng từng lóng xương. Làng Đan bây giờ chỉ còn lại duy nhất một nghệ nhân theo nghề là lão Rổ. Đúng là lão Rổ thật. Khuôn mặt đậu mùa từ khi sinh ra đã để lại chằng chịt những vết sẹo lỗ chỗ. Lão khoái cái tên Rổ vì nghề của lão là đan Rổ. Vợ lão tên là Rá, đây là cô vợ hai. Vợ đầu chết sớm khi chưa có con. Lão thích cô này vì cái tên: Rá! Rổ, Rá cặp lại mà sinh ra một cô gái có khuôn hình dỏng cao nước da trắng hồng như người mẫu. Lão đặt tên con là Tre - Nguyễn Thị Thanh Tre. Tre không chịu, lão bảo: “Mày dáng cao vong vỏng như thân tre ngà thì tao đặt là Thanh Tre, đúng quá còn chê gì nữa”. Tre không chịu đi học vì cứ đến lớp là lũ bạn cứ réo lên: “Ê, ê bọn mày ơi! Cái Thanh Tre nó đến rồi”. Thầy giáo làng là người nghiêm lắm luôn có một thanh tre dắt lưng, trò nào lười học là vụt luôn. Lắm đứa lưng cứ nổi con lươn, con chạch nên bọn nó ghét luôn cô bé có cái tên ấy. Mãi sau, có một họa sĩ chuyên vẽ đề tài nông thôn gặp Tre liền nhờ làm người mẫu. Từ đó cái tên Thanh Tre được thay bằng Thanh Trúc và bức tranh “Bé Thanh Trúc” ngồi trên cái ghế tre do ông Rổ đóng đã trở thành bức họa nổi tiếng được đem đi triển lãm quốc tế và bán cho một thương gia nước ngoài.
Minh họa: HOÀNG ĐẶNG |
Ngày ấy, tôi cùng đám trai làng mê Thanh Trúc như điếu đổ. Nhà Thanh Trúc nuôi một con chó dữ, lão Rổ đặt tên là Măng. Con Măng tinh khôn lắm luôn quẩn quanh bên cô chủ. Vì thế dù có đêm khuya khoắt Thanh Trúc đi họp đoàn về đố có kẻ xấu nào dám trêu ghẹo. Tôi biết Măng khoái khẩu món cá đồng nướng nên tối nào muốn đến tán tỉnh em Trúc thì trưa đó phải lặn lội ngoài mương để bắt cho kỳ được mấy chú Rô ron bụng phình trứng con đầy nhớt dụi vào đống rạ khô nướng đến khi thân hình tròn căng nứt nẻ thịt cá Rô trắng bông bọc trong lá chuối khô mà mùi thơm vẫn cứ rịn ra. Tôi vừa thập thò đến cổng nhà Trúc đã thấy chân mình cái gì cọ vào rin rít, ướt át, ấm nóng hóa ra là Măng. Thanh Trúc bảo: “Con Măng tinh thật chưa thấy anh đâu đã thấy nó rối rít đuôi cứ ve vẩy và vọt ra ngoài ngõ là em biết ngay!”. Nhà lão Rổ nhiều khách.
Khách của lão là bạn già nghiện nước chè xanh và hút rít thuốc lào. Cũng lạ, món thuốc lào hút vào say đứ đừ này lại kén điếu lắm. Thuốc thì tất nhiên phải là loại Tiên Lãng rồi nhưng còn điếu thì chỉ có lão Rổ mới tiện ra những ống điếu rít lên cứ sòng sọc kêu giòn dã như súng bắn liên thanh. Cái nỏ điếu lòe ra như dáng một bông hoa lửa, nước điếu thì đậm đà, lão bảo: “Chỉ có điếu tre mới ngon chứ hút cái điếu bằng kim loại khói thuốc không say được, nó vô cảm lắm, cứ lành lạnh, lì lợm, trơn nhẵn”. Ống điếu lão làm khá cầu kỳ. Tất nhiên là phải chọn tre rồi. Đó là loại tre chết “róc”, tre già đã chết khoảng một phần ba từ ngọn xuống. Thường, một bụi tre lớn, mới có vài cây chết “róc” lão thường chọn tre tháng Ba “Tre non tháng Ba bằng tre già tháng Tám”. Khoảng giữa điếu bao giờ cũng có một mắt tre được lão khéo léo khoan thủng còn nỏ điếu là một kì công. Đó là gốc cây chè già, lá thì uống, gốc làm nỏ điếu loại chè được trồng trên vùng đồi hút hết tinh chất gió sương. Gốc chè được lão triện nhẵn khoan thủng tạo những dáng đẹp lạ. Khi hút, khói thuốc ngấm qua vị thân chè lại được luồn tráng qua thân tre già chắc tạo ra một hương vị riêng, lại chiêu một ngụm nước chè xanh đặc chát thì chỉ có thăng hoa lên trời say đứ đừ mà chỉ có ở nhà quê mới có. Khách đến nhà lão thường ngồi trên cái chõng tre lão đóng, ngồi xếp bằng. Hai bàn chân to bè nứt nẻ như ruộng đồng nắng hạn xát vào nhau cho hết bụi rồi vén cái quần thụng thế là bữa tiệc thuốc lào chè xanh cắm tăm rôm rả. Nước chè của lão đựng trong cái gáo dừa chứ bằng bát sứ là vứt! Gáo dừa có chất gì vậy? Lão bảo: “Cái đó là duyên giữa gỗ và nước, đời này không có duyên là vứt!”.
Thanh Trúc thường giúp bố luộc nồi khoai Nghệ củ nào cũng nung núc ruột vàng vỏ nâu thơm đến ứa mật. Mấy bạn già của lão đã đánh tiếng “E hèm” muốn làm thông gia với lão bởi: “Cái bé Tre, bé Trúc nết na lắm lại học giỏi, vi tính thì nhất cứ lên mạng nhoay nhoáy nó còn chat được cho cả người Tây nữa”. Lão Rổ có bộ đồ nghề cha truyền con nối thật tinh xảo giống như dụng cụ của một bác sĩ ngoại khoa chuyên mổ xẻ. Thôi thì đủ cả: Đục to, đục nhỏ rồi chàng, khoan, cưa, dao chẻ, dao vót, bào tròn, bào vuông tất cả đều được lão đặt hàng ở làng rèn Trung Lương nổi tiếng với loại thép đặc biệt tôi kỹ trong than lưỡi cứ bén ngọt. Đặc biệt là cái khoan có cái dây được làm bằng da bò từ mấy đời săn chắc. Lũ trẻ chúng tôi như chùm quả đu đủ trĩu vào xung quanh lão để nhờ lão làm diều. Lão hỏi: “Đố các cháu biết loại nào tre đực, tre cái” chúng tôi ngẩn ra tò te - cây làm gì có đực, cái nhỉ có phải như con này con nọ đâu. Thôi thì: “Tre cái đẻ măng, còn tre đực thì...” lão cười khà khà mắt nheo nheo, đó là bệnh nghề nghiệp của lão, mắt lão nheo và ngón tay sần sùi vuông cành cạnh như cái đục: “Tre đực là dày mắt ruột đặc, tre cái là mắt thưa thẳng hơn dễ chẻ, còn tre nào mà chẳng đẻ măng!”. Cái tiếng “măng” lão nói to khẳng định dứt khoát làm con Măng tưởng gọi mình giật nảy, cuống quýt chạy lại ve vẩy đuôi tỏ vẻ thân thiện với lũ trẻ chúng tôi. Có người đến nhà lão tìm học nghề, anh này cũng khéo tay.
Lão giao cho khâu đục mọng là khó nhất. Tre già ở lớp ngoài nhưng trong lại non đục không khéo là vỡ liền. Anh này cũng khôn khoan hai mũi sau đó mới đục. Được! Lão chấp nhận - Còn chốt! Đục tròn, chốt tròn ống tre vỡ ra. Thôi rồi bạn ơi khâu sát hạch không vượt qua được, thì ra đục lỗ tròn nhưng chốt phải vuông mới khít được như kiểu trời tròn đất vuông ấy mà. Nghe lão nói anh chàng học nghề ngẫm ra được nhiều điều triết lý dân gian độc đáo. Vật liệu nghề đan của lão đâu chỉ có bằng tre. Bà Rá là người chuyên đi chợ huyện mua hàng cho lão. Ngoài tre trong vườn thì còn phải mua cây Trập (đan rá), cây Giang (đan dần), cây Nứa (đan sàng), cây Mây (đan rế). Bà Rá là người xởi lởi lúc nào miệng cũng bỏm bẻm nhai trầu chưa thấy người đã nghe giọng cười rộn rãng. Nhưng bà chọn vật liệu rành lắm. Có thứ sờ bằng tay, nhìn bằng mắt và có khi ngửi bằng mũi nữa mới đánh giá được chất lượng. Chưa bao giờ thấy lão Rổ phàn nàn về việc mua chọn của bà. Hình như trời sinh ra để hai người làm nghề này vậy. Nhà lão cung cấp cho cả làng gần như đồ dùng hằng ngày toàn là đồ lão tặng. Nhà lão bao giờ cũng được ăn cá tươi bởi dân làng đánh được đem cho bằng những dụng cụ lão làm ra sát cá lắm như cái nơm, cái nhủi, cái đó. Lão bảo: Có gì đâu sinh ra từ đất này từ nhỏ lão đã thuộc cả thổ đất cả mương máng sông lạch nên đồ lão làm ra cũng đã được đo đạc ướm thử bằng linh cảm của mình.
Thanh Trúc học giỏi môn hóa suốt ngày ngồi pha chế hết màu này đến màu khác. Màu cũng bắt đầu từ rễ khoai, lá môn, đọt bầu đâm đâm giã giã mà tạo ra thứ sơn thực vật dính bệt hơn cả nhựa keo phết lên các đồ nông cụ bắt mắt ít khi phai màu. Trúc cứ thế lớn lên, líu lo hát, líu lo nhảy chân sáo ngày một phổng phao và thi đậu vào khoa hóa chuyên ngành sản xuất tái tạo đồ nhựa phế phẩm. Sản phẩm do cô nghiên cứu và sản xuất cũng đại trà theo dây chuyền công nghiệp mẫu mã y hệt giống nhau cũng là rổ, rá, bàn, ghế nhưng tất tật đều bằng nhựa tái sinh với muôn màu, muôn vẻ. Rồi cô được đi nghiên cứu sinh sang cái nước mà ngày trước ông họa sĩ đưa tranh “Bé Thanh Trúc” đi triễn lãm. Không ngờ người mua tranh ngày ấy tình cờ gặp và nhận ra cô trong một cuộc trưng bày sản phẩm ở gian hàng Việt Nam lại là đồ tre mây của bố cô làm. Mối tình không biên giới giữa kỹ sư hóa chất Thanh Trúc với con trai nhà thương gia đã bén nồng. Họ quyết định về làm đám cưới ở làng Đan. Khách mời là chục ông tây, bà đầm lỉnh kỉnh những máy quay phim, chụp ảnh vừa về dự đám cưới vừa được tham quan cái làng nghề còn sót lại nghệ nhân Nguyễn Văn Rổ đã được lên truyền hình mấy lần với những bộ sưu tập rổ, rá, dần, sàng truyền thống lâu đời của người Việt.
Thanh Trúc gửi giấy mời bạn học cũ bằng một tấm thiệp độc đáo được làm bằng một phiến tre già với nét hoa văn cầu kỳ tinh xảo do bố cô dày công chạm trổ trước cả hàng tháng. Đám cưới diễn ra thật bất ngờ khi dân làng huy động toàn bộ chõng tre, bàn tre, ghế tre của cả làng cho khách ngồi dự tiệc. Còn dụng cụ làm bếp thì toàn bằng tre cả. Dân tây tận mắt được nhìn những hạt gạo, hạt nếp xay, giã, dần, sàng trắng muốt, lại được tận tay bắt những con cá tươi nhầy nhớt từ cái oi con vịt đan bằng tre căng phồng lại được xếp bằng rít thuốc lào uống nước chè xanh mắt cứ say đứ đừ miệng cứ “Ok”, “Thank you”. Lão Rổ hể hả dắt tay bà Rá đi giữa đám thực khách miệng cứ rối rít gọi con Tre ơi! Tre ơi! Rồi sực nhớ ra lão lại ngượng nghịu cười Thanh Trúc! Thanh Trúc. Chỉ có con Măng đã già mắt kèm nhèm nằm ở góc vườn buồn bã. Nó không còn nhận ra tôi. Sực nhớ tôi đi ra bếp sau vườn chọn một chú cá rô béo nhất tự mình nướng theo đúng khẩu vị của Măng ngày trước bọc vào cái lá chuối khô quen thuộc bước lại gần Măng, Măng khịt khịt mũi nhổm lên rồi nhảy cững rối rít giơ hai chân trước cào cào vào người tôi, cái mũi hít hít cái gói cá nướng tôi cầm từ mắt nó rỉ ra dòng nước nóng hổi. Xung quang tôi cả rặng tre vườn dường như cũng bừng tỉnh hòa chung với không khí đám cưới nhà quê. Tre đan vào nhau xào xạc, xào xạc…
Hà Tĩnh ngày 30-3-2013
NGUYỄN NGỌC PHÚ