PHẠM PHÁT
Sinh năm 1933
Quê quán: Hội An, Quảng Nam
Hiện đang sống tại Đà Nẵng
Hội viên Hội Nhà văn thành phố Đà Nẵng
Viết văn, làm thơ từ thời còn trẻ, nhưng ít khi nhà văn Phạm Phát nói về mình, ông xem công việc viết lách như là nghề phụ. Viết để trải nghiệm, ký thác, gửi gắm những cảm xúc sâu nặng, vốn sống của mình trước bao nhiêu vui buồn giữa cuộc đời này. Thơ ông là câu chuyện kể theo dòng chảy của ký ức, đôi khi thương cảm, đớn đau, nhưng cấu tứ của mỗi bài thơ bao giờ cũng mở ra cho người đọc lòng nhân ái sâu nặng... Tình Đồng đội của ông thời chiến tranh là một ví dụ: Tôi cởi áo len/ đổi hai đôi dép/ Hắn một đôi/ Tôi một đôi/ Hắn bán bút máy kéo vào quán mì/ Tôi một bát. Ngày bạn mất vẫn Một bát mì/ Một nén hương... nhưng trong lòng tác giả Một tôi đau điếng/ Chợt thấy đôi dép đặt cạnh quan tài/ Bưng mặt/ Nấc không thành tiếng. Một lối viết mộc, trần trụi như kể chuyện có sức chấn động lắng sâu, chẳng hề dụng công màu mè câu chữ, chỉ có tiếng lòng bật ra thi tứ.
(Nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh chọn và giới thiệu)
Đá Non Nước
Lạ lùng từng thớ đá
Mềm mại thịt da người
Tay ai đầy phép lạ
Đá thức dậy khóc cười
Rằm phố cổ
Rằm đến đường quen thành phố lạ
Đèn lồng mờ tỏ lối chiêm bao
Trăng ra khỏi phố trăng gần quá
Ngỡ đèn nhà nọ kéo lên cao
Trong công viên
Trong công viên
Một chiều
Quanh bức tượng
Già đánh cờ
Trẻ chơi bóng
Thiếu phụ đẩy xe nôi
Trai gái từng đôi, từng đôi...
Người hành khất như đi lạc
Tay dò gậy, tay ngửa mũ
Về phía tiếng người
Những người sáng chẳng ai nhìn thấy
Người mù
Ngửa mũ vào bức tượng
Bức tượng đứng im.
Tảng băng trôi
Tưởng nhớ anh Phan Tứ
Trên Nam cực
Một tảng băng khổng lồ
Vừa tách khỏi thềm La-xan
Đang trôi về phương Bắc
Ở đây
Chúng tôi nắm tay anh
Bàn tay lạnh ngắt
Đang tách khỏi chúng tôi
Và từ từ trôi
Tảng băng khổng lồ bằng cả nước Luxambua
Đang trôi về nhiệt đới
Một mảng địa cầu triệu triệu năm vậy đó
Đang biến vào đại dương như chưa hề có
Quan tài anh khác chi khối băng
Đang trôi trên vai người về tan trong đất ấm
Để lại những trang tác phẩm
In dấu chân anh trên mặt đất này.
Đồng đội
Tưởng nhớ Khương Thế Hưng
Hắn và tôi
Sinh cùng quê
Học cùng lớp
Vào lính cùng ngày
Đầu trần chân đất
Ngày đi
Tôi cởi áo len đổi hai đôi dép
Hắn một đôi
Tôi một đôi
Hắn bán bút máy kéo vào quán mì
Tôi một bát
Hai thời trận mạc
Cạn hai đời người
Đạn bom xưa hai thằng cùng đội
Bệnh trọng chừ đành một hắn đi
Một bát mì
Một nén hương
Một tôi đau điếng
Chợt thấy đôi dép đặt cạnh quan tài
Bưng mặt...
Nấc không thành tiếng!
P.P