Đà Nẵng cuối tuần
Người gốc Đà Nẵng hai lần làm Tổng trấn Gia Định thành
Kinh Môn quận công Nguyễn Văn Nhơn (có tài liệu ghi là Nguyễn Văn Nhân) là danh thần triều Nguyễn. Ông quê gốc ở Đà Nẵng, tổ tiên di cư vào Nam đến ông là 3 đời. Khu lăng mộ của gia đình ông hiện ở thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp, là một di tích đặc biệt.
Toàn cảnh lăng mộ Quận công Nguyễn Văn Nhơn ở xã Tân Khánh Đông, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ảnh: L.C.T |
Khu mộ cổ ở Sa Đéc
Tại số 77 đường Chùa, ấp Đông Huề, xã Tân Khánh Đông, thành phố Sa Đéc có một khu mộ cổ gồm 6 lăng mộ lớn và một số ngôi mộ nhỏ. Hai lăng mộ lớn nhất là mộ của hai vợ chồng danh thần Nguyễn Văn Nhơn, một danh tướng của Nguyễn Ánh. Những ngôi mộ khác của cha, mẹ, vợ con, cháu của Nguyễn Văn Nhơn.
Lăng mộ Nguyễn Văn Nhơn có một tấm bia lớn và hai bài vị bằng gỗ, một chép chữ Hán, một chép chữ Quốc ngữ. Tấm bia lớn ghi: “Hoàng Việt Chưởng Hữu quân Quận công tặng Thái bảo Nguyễn Công chi mộ” (Mộ ngài họ Nguyễn, Chưởng Hữu quân quận công tặng tước Thái bảo Quận công). Bài vị bằng chữ Hán ghi: “Khâm sai Chưởng Hữu quân, tặng Dực vận Đồng đức công thần, đặc tiến Phụ Quốc Thượng tướng quân Thượng trụ quốc, Thái bảo Nhơn quận công, tứ thụy Trung Cẩn Nguyễn Công tôn linh liên đài tọa vị” (Bài vị trên tòa sen thờ tôn linh Nguyễn Công chức Khâm sai Chưởng Hữu quân, tặng Dực vận Đồng đức công thần, đặc tiến Phụ Quốc Thượng tướng quân Thượng trụ quốc, Thái bảo Nhơn quận công, ban tên thụy Trung Cẩn).
Bài vị chữ Quốc ngữ ghi: “Tổng trấn Gia Định thành Tả vận Trung hưng công thần đặc tấn tráng võ tướng quân Hữu quân Đô thống phủ Chưởng chấn võ quân Dực vận Đồng Đức công thần đặc tấn Trụ quốc Thượng tướng quân Thượng trụ quốc Chưởng phủ sự Thái tử Thái bảo Kinh Môn Quận công Nguyễn Văn Nhơn, thụy Mục Hiến Thượng đẳng thần 1753-1822”.
Những thông tin về chủ nhân ngôi mộ hoàn toàn trùng khớp với những nội dung viết về Nguyễn Văn Nhơn trong Đại Nam Liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Khu lăng mộ này nguyên trước đây nằm ở phía tả ngạn sông Tiền. Do bờ sông bị sạt lở nên gia tộc di dời về đây và làm lễ “khánh táng” vào ngày 17 tháng 3 năm Canh Thân (1920). Khi di dời khu mộ cổ bên bờ sông Tiền, người ta đã phát hiện một kho báu, gồm vàng bạc, châu báu và rất nhiều các đồ tùy táng vốn là những vật dụng được triều đình ban tặng, trong đó nổi bật là thanh gươm bằng vàng nạm ngọc do vua Minh Mạng ban thưởng.
Không có tài liệu nào cho biết kho báu gồm những gì, sau đó bao nhiêu thứ được tiếp tục cải táng, bao nhiêu thứ bị người Pháp tịch thu và không rõ đã lưu lạc nơi nào. Vì vậy, việc bảo vệ khu lăng mộ là nhiệm vụ quan trọng không những của gia tộc Nguyễn Văn mà còn của chính quyền thành phố Sa Đéc.
Hai lần “làm sui” với các vua nhà Nguyễn
Nguyễn Văn Nhơn còn có tên là Nguyễn Văn Sáng, biệt danh “Quan lớn Sen”, sinh năm 1853 tại làng Tân Đông, huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang (nay thuộc thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp). Ông bắt đầu binh nghiệp bằng chức Cai đội vào năm 1774 với việc đem 4 đội binh mã của mình theo phò Trấn thủ Long Hồ là Tống Phước Hiệp. Năm 1877, ông được thăng chức Cai cơ. Năm 1782, ông bị nhà Tây Sơn bắt giam 3 năm. Sau khi trốn thoát, ông tìm sang Xiêm để gặp Nguyễn Ánh. Trên đường đi, ông gặp người của Nguyễn Ánh sai về nên quay lại, tập hợp binh sĩ chiếm giữ Long Xuyên.
Sau khi chiếm lại Gia Định vào năm 1787, ông được thăng chức Vệ úy Hữu tiệp Trung quân Thủy dinh, sau đó được cử làm Trấn thủ Trấn Biên.
Sau khi lên ngôi, Gia Long cử ông làm Lưu trấn Gia Định (1802-1805). Năm 1808, khi đổi trấn Gia Định thành Gia Định thành, ông được cử làm Tổng trấn. Đến năm 1813, ông giao chức vụ này lại cho Lê Văn Duyệt. Năm 1819, ông quay trở lại chức vụ cũ. Năm 1821, ông được triệu về kinh giữ chức Tổng tài Quốc sử quán. Ông mất vào mùa xuân năm 1822, thọ 69 tuổi.
Nguyễn Văn Nhơn là người văn võ song toàn: Khi trẻ từng cầm quân giúp Nguyễn Ánh gây dựng lại cơ nghiệp và được phong là một trong Ngũ hổ tướng Gia Định; là người hai lần làm Tổng trấn Gia Định thành. Cuối đời, ông được vua Minh Mạng cử làm Tổng tài Quốc sử quán, một chức vị đòi hỏi không những sự trung chính mà cả sự uyên bác. Ông rất ham học và coi trọng việc học. Lúc nhỏ, do chiến tranh không được học bài bản nên khi làm Trấn thủ Trấn Biên, dù đã lớn tuổi và có địa vị nhưng ông vẫn rước thầy về giảng kinh sách cho mình và ngày đêm miệt mài học tập. Ông cũng từng dâng sớ đề nghị cải cách việc học, lập nhà hương học, định lại phép khoa cử, trọng dụng người tài.
Nguyễn Văn Nhơn đã hai lần “làm sui” với các vua nhà Nguyễn. Con trai ông là Nguyễn Văn Thiện cưới Công chúa Ngọc Khuê, con gái thứ 12 của vua Gia Long; con gái ông là Nguyễn Thị Trọng làm Lệnh phi của vua Thiệu Trị. Ông là một trong số rất ít người được nhà vua miễn quỳ lạy khi vào chầu và tâu bày ý kiến, khi chết được nhà vua đến tận nhà để đưa tang.
Người gốc Đà Nẵng di cư
Trong Theo dấu Người xưa (NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2017), các tác giả Phan Mạnh Hùng và Nguyễn Đông Triều viết ở trang 11, 12: “Tổ tiên Nguyễn Văn Nhơn vốn sống ở Cửa Hàn (nay là Đà Nẵng), theo chúa Nguyễn vào Nam ở dinh Trấn Biên, thôn Bình Chánh, sau đó lập quê quán ở làng Tân Đông. Cha Nguyễn Văn Nhơn là Nguyễn Văn Quang (1705-1764) có ba bà vợ, Nguyễn Văn Nhơn là con trai thứ hai của bà vợ nhì”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Nhất Thông dựa vào gia phả họ Nguyễn Văn ở Sa Đéc cho biết, trong cuốn Đôi nét văn hóa - lịch sử một vùng đất (NXB Hội Nhà văn, 2019, trang 123) ghi: “Ông Nhơn là người sinh quán tại thôn Tân Đông, huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang (nay thuộc xã Tân Khánh Đông, thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp). Nội tổ là Nguyễn Văn Trâu, người ở Cửa Hàn, làng Con Nhạn, xã Ô Phi thuộc Đà Nẵng, hưởng ứng cuộc Nam tiến của các chúa Nguyễn nên đưa gia đình vào Nam lập nghiệp. Ông Trâu đã dừng ghe bầu ở thôn Tân Đông, cạnh bờ sông Tiền (nay là xã Tân Khánh Đông, Sa Đéc, Đồng Tháp) khai phá, mở mang nên cơ nghiệp. Chẳng bao lâu sau, ông kết nghĩa thông gia với ông Hương hào Chiêm ở thôn Tân Khánh bên cạnh. Đó là cuộc xe duyên cho Nguyễn Văn Quang và cô thôn nữ Thị Áo để rồi sinh ra Nguyễn Văn Nhơn vào năm 1753”.
Rất tiếc do trải qua nhiều đổi thay nên các địa danh cũ đã không còn, đến nay chúng tôi vẫn chưa xác định được làng Con Nhạn, xã Ô Phi ngày đó nay thuộc địa phương nào của thành phố Đà Nẵng.
LÊ THÍ