Chuyện xưa xứ Quảng
Chiến tướng Hồ Học và ngôi mộ bị xiềng
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền và nhân dân Hòa Vang đã làm lễ “phá xiềng” cho hai ngôi mộ. Một của quan Khâm sai Nguyễn Hữu Lịch ở Khê Lâm (nay thuộc xã Hòa Sơn) và một của chiến tướng Hồ Học ở Vân Dương (nay thuộc xã Hòa Liên).
Hiện nay, để xây dựng Khu công nghệ cao Đà Nẵng, mộ của chiến tướng Hồ Học đã được quy hoạch về Nghĩa trang xã Hòa Liên. Ảnh: L.T |
Hồ Học (còn gọi là Hồ Như Học), người được nhân dân vùng tây Hòa Vang trước đây phong là Thống Hay, là một chiến tướng của phong trào Nghĩa hội Quảng Nam. Ông sinh năm 1855 tại làng Vân Dương, tổng An Hòa, huyện Hòa Vang (nay là xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng). Ngay từ ngày đầu, Hồ Học đã hưởng ứng Hịch Cần Vương của vua Hàm Nghi, được Nguyễn Duy Hiệu nhân danh vua phong chức Lãnh binh, được quyền “tiền trảm hậu tấu” và phân công chỉ huy lực lượng nghĩa quân ở vùng Tây Bắc Hòa Vang. Hồ Học thực hiện chiến tranh du kích theo lối đánh xuất quỷ nhập thần khiến quân Pháp và Nam Triều phải điêu đứng vì bị uy hiếp và làm tiêu hao lực lượng.
Nhà nghiên cứu Lưu Anh Rô, trong bài Chiến tướng Hồ Học đăng trên Báo Đà Nẵng ngày 17-11-2008, kể rằng: “Dân các làng Vân Dương, Hưởng Phước thường kể rằng: Để gây thanh thế, ông Học cho lính chặt dứa dại phơi khô, xẻ ruột đổ dầu mù u vào rồi đốt, mỗi người cầm một đuốc, vai thì gánh hai thân cây dứa đang cháy đi trong đêm, nên Pháp thấy quân Nghĩa hội nhiều vô kể. Tại bãi cát Thanh Vinh, ông Học cho quân đào một hầm dài 1km, cao 1,5m, dưới cắm nhiều chông, trên lấy cót tre đậy lại, rồi phủ cát và cỏ lên để ngụy trang. Quân Pháp từ Đà Nẵng kéo lên, quân ông Học lao vào đánh giáp lá cà rồi giả vờ bỏ chạy. Địch đuổi theo, liền bị rơi xuống hố”.
Hồ Học cũng là tác giả của chiến thắng Nam Chơn mà người Pháp sau này gọi là “Thảm kịch Nam Chơn”. Trận đột kích diễn ra vào đêm 28-2 rạng 1-3-1886, đã xóa tên một đoàn công tác cầu đường thuộc một đơn vị công binh ưu tú trong phái bộ quân sự Pháp tại Huế. Trận đánh này được Nguyễn Sinh Duy mô tả trong cuốn Phong trào Nghĩa hội Quảng Nam (NXB Đà Nẵng, 1998, trang 216, 217) như sau:
“Nghe có tiếng động Basson chụp ngay lấy súng lục trên bàn, bóp cò rồi nằm sát đất. Nhưng đã chậm, nghĩa quân từ bốn phía gào thét, ập vào nhà đè Besson xuống, cắt ngay lấy thủ cấp, đoạn rút ra khỏi nhà. Tức thì, bao nhiêu mồi lửa cũng đồng thời phóng vào căn nhà tranh. Lửa bùng cháy. Bọn lính đánh bộ ngủ ở căn nhà bên cạnh bị đánh thức bởi tiếng súng và tiếng gầm thét. Bọn chúng hốt hoảng trong cơn ngái ngủ. Chúng không kịp cầm súng vì lửa đã bốc cao trong nhà. Nghĩa quân chặn hết các lối ra. Tất cả đều chết cháy… Nam Chơn hoàn toàn bị thiêu rụi, không thấy người An Nam nhưng bảy xác người Pháp trong đó có ba cái mất đầu mà một là của Đại úy Besson...”.
Về việc Hồ Học bị bắt, có hai giả thiết. Thực hư không biết thế nào. Có người cho rằng ông bị bắt cùng Tán Bùi, Đốc Sành, Lãnh Địa, Cai Á… trong trận đánh ở Hố Chiếu, do lực lượng mỏng trong khi quân Pháp đông gấp 4 lần, lại có quân tiếp viện. Lưu Anh Rô, trong bài đã dẫn, lại cho là “Thực dân Pháp mua chuộc được người hầu thân cận của Hồ Học và phục rượu cho ông say để bắt. Đêm đó, Hồ Học say như chết, thanh gươm thì người vợ đem cất, chỉ còn lại chiếc khiên bên cạnh. Khi tên phản bội dẫn Pháp đến, Hồ Học trở tay không kịp nên bị bắt khiêng về Ty Niết ở Hội An”.
Trong tập truyện Hương Máu (xuất bản năm 1969), nhà văn Nguyễn Văn Xuân đã viết những dòng… bất hủ, làm cho cái chết của Hồ Học càng trở nên… bất tử: “…Một người cưỡi ngựa tiến lên trước, hai người cầm đuốc ngồi trên lưng ngựa tiếp liền theo sau. Nhiều binh lính khác cũng cầm đuốc, gươm tuốt trần, kèm một tù nhân đang thong dong đi ở giữa. Đó là một tráng niên, mặc bộ đồ màu đà, bị trói chặt cánh khuỷu vừa đi vừa ngửng cao cái trán, đầu tóc rối trước cơn gió lộng từ khoảng đồng rộng như dồn hết lại để thổi vào dưới cửa thành… Qua cửa thành lính không dẫn về phía nhà lao mà về phía Ty Niết. Hồ Học mím chặt đôi môi làm nổi bật cái cằm tua tủa những sợi râu cứng đơ, mặt hầm hầm bước đi chắc nịch…
…Người ta nghe một tiếng vút cái ghế dựa bằng gỗ trong tay ông đã lao tới như gió, đánh thẳng vào mặt viên đại tá. Y lấy tay đỡ thì một chân ghế đã xoẹt qua đầu, hất cái mũ của y xuống đất. Lập tức hàng chục vũ khí tung ra giữa lúc một viên hạ sĩ quan cận vệ của đại tá rút súng lục ra định bắn. Hồ Học liệng mình lao tới, đá song phi vào khẩu súng và vào mặt hắn. Nhưng không kịp, vệ sĩ thứ hai bắn liền hai phát vào hông. Ông ngã giục xuống vừa ôm bụng vừa trườn tới để với khúc côn. Nhưng không còn kịp nữa ông trút hơi thở cuối cùng…”.
Sau khi Hồ Học chết, người Pháp cho cắt đầu ông bỏ vào giỏ tre đem treo để “thị uy, răn đe” ở làng Lai Nghi (gần Hội An). Mười ngày sau, đồng đội của ông mới đánh cắp được đưa về an táng ở Vân Dương. Mặc dù con cháu ông làm ba ngôi mộ khác nhau để đánh lạc hướng kẻ địch, nhưng bọn Pháp và quân Nam triều vẫn truy tìm được ngôi mộ thật và cho xiềng lại bằng một sợi xích sắt, dù dưới mộ chỉ có cái đầu của ông, phần thân thể còn lại chỉ là cành dâu và đất sét. (Theo tục xưa, người ta lấy thân cây dâu làm xương, lấy đất sét nắn lại hình nhân để thay cho những người bị chết chém hoặc chết mất xác).
Mãi đến năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, ngôi mộ ông mới được nhân dân huyện Hòa Vang tổ chức lễ phá xiềng để giải phóng cùng với mộ của ngài Khâm sai Nguyễn Hữu Lịch ở Hòa Sơn.
LÊ THÍ