Đà Nẵng cuối tuần
Đóng góp của Phạm Phú Thứ đối với Hải Dương và Quảng Yên
Công lao của Phạm Phú Thứ đối với sự nghiệp canh tân đất nước nói chung, đất Quảng nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập và khẳng định. Ông từng giữ chức Tổng đốc hai tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương cùng thành phố Hải Phòng (theo đơn vị hành chính hiện nay) hơn 6 năm.
Phạm Phú Thứ (1820-1883) quê làng Đông Bàn, huyện Diên Phước, nay thuộc xã Điện Trung, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. (Ảnh tư liệu) |
Phạm Phú Thứ được triều đình Huế giao nhiệm vụ Tổng đốc Hải Yên - người đứng đầu hai tỉnh Hải Dương và Quảng Yên (theo đơn vị hành chính đương thời) vào năm 1874 niên hiệu Tự Đức thứ 27. Đây là thời điểm tròn 10 năm kể từ ngày Phạm Phú Thứ cùng cựu Bố chánh Quảng Nam Phan Thanh Giản kết thúc chuyến Tây hành/Tây phù - theo cách nói của chính ông trong 2 trước tác nổi tiếng là Tây hành nhật ký và Tây phù thi thảo.
10 năm trôi qua, những điều trông thấy ở xứ người, cùng tư duy “Quảng Nam hay cãi”, cộng với khát vọng canh tân từ ngày bắt đầu tham dự chính trường, đã luôn đồng hành với hoạn lộ của Phạm Phú Thứ, thôi thúc ông dũng cảm vượt qua không ít tư duy quen thuộc nhưng đã lỗi thời để đề xuất với triều đình nhiều bản tấu đầy tâm huyết về đổi mới cách nghĩ, cách làm.
Đồng hành với Phạm Phú Thứ trong thời gian ông kinh bang tế thế ở Hải Yên, ngoài võ tướng đồng hương là Ông Ích Khiêm quê Hòa Vang, còn có 2 người đồng hương Quảng Nam nữa: Một là Thương chánh Tham biện Lương Văn Tiến/Tấn, anh em cô cậu với Phạm Phú Thứ - người mà vào năm 1876 niên hiệu Tự Đức thứ 29 được nhà vua giao phụ trách Nha Thương chính Bắc Kỳ thay Bùi Viện, khi Phạm Phú Thứ chính thức được bổ nhiệm chức Tổng đốc Hải Yên; hai là Tri huyện Thủy Nguyên Hải Dương Nguyễn Tường Tiếp (ông nội của các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam; cả đời Nguyễn Tường Tiếp sinh sống và yên nghỉ ngàn thu ở Cẩm Giàng nên nhiều người thường nhầm ông là Tri huyện Cẩm Giàng).
Mấy năm trấn nhậm trên địa bàn Hải Yên, Tổng đốc Hải Yên Phạm Phú Thứ đã đặt dấu vân tay của mình vào 3 việc trọng tâm: Phát triển kinh tế biển, phát triển văn hóa đọc và thực thi chính sách an dân.
Phát triển kinh tế biển
Để lãnh đạo phát triển kinh tế biển ở Hải Yên, Phạm Phú Thứ có 2 trợ thủ đắc lực: nguyên Tả Thị lang Bộ Lại Nguyễn Tăng Doãn (quê Quảng Trị) được phái ra Hải Dương để nghiên cứu về kế hoạch hoạt động của Nha Thương chính Bắc Kỳ, và Cử nhân Bùi Viện (quê Nam Định).
Bùi Viện làm việc cùng với Phạm Phú Thứ đến năm 1877 niên hiệu Tự Đức thứ 30 thì được điều về Kinh nhận nhiệm vụ mới cũng liên quan đến kinh tế biển. Trong sách Bùi Viện với cuộc Duy Tân của triều Tự Đức (tác giả Phan Trần Chúc, 1942) từng mô tả làng chài Gia Viên trước khi nơi đây trở thành thương cảng Ninh Hải hiện đại so với đương thời: “Bến Ninh Hải là một thôn nhỏ thuộc địa phận tỉnh Hải Dương gần với cửa Cấm.
Cho mãi đến đời Tự Đức, người Việt Nam tuyệt nhiên không ai để ý đến cái địa điểm nhỏ mọn này. Ninh Hải chỉ là chỗ hội họp của mấy nhà thuyền chài kiếm ăn ngoài bể hoặc trên các sông con. Giang sơn của họ là mấy chái lều tranh ẩn dưới bụi lau rậm, phủ lấy những đống bùn lầy chạy suốt miền duyên hải”. “Bùi Viện đã hăng hái mộ binh lính, dân phu, ra sức đào sông tháo nước ra biển, vượt đất lên cao làm vườn tược hay nền móng nhà.
Chẳng bao lâu vùng bùn lầy hẻo lánh ít ai biết đến này đã trở nên đông đúc với đường đi lối lại trên bộ dưới nước thuận tiện, có thương điếm đánh thuế tàu thuyền ra vào, có cơ quan phòng thủ phụ trách việc giữ an ninh trong vùng, gọi là Hải biên phòng thủ”.
Công lao của Bùi Viện rất lớn, nhưng đó cũng chỉ là công việc của một quan chức thừa hành/ một nhà quản lý, còn đóng góp của Phạm Phú Thứ là cống hiến của một thủ lĩnh/ một nhà lãnh đạo. Có thể nói, chính Phạm Phú Thứ mới là người có công đầu trong việc biến một làng chài nghèo khó thành cảng Hai Phòng sầm uất ngày nay.
Trong sách Bùi Viện với cuộc Duy Tân của triều Tự Đức, Phan Trần Chúc cho rằng, chính Bùi Viện mới là người có công biến làng chài Ninh Hải thành một thương cảng kiêm quân cảng, thành nơi giao thiệp với các nhà buôn ngoại quốc, rằng bến Ninh Hải là “công trình kiến trúc” của Bùi Viện, và cũng khẳng định thượng cấp trực tiếp giao trọng trách ấy cho Bùi Viện là Doãn Uẩn (thực ra là Doãn Khuê con chú ruột của Doãn Uẩn - Phan Trần Chúc nhầm bởi Doãn Uẩn qua đời hồi đầu năm 1850 ở An Giang), chứ không hề nhắc gì đến Phạm Phú Thứ.
Sau này, trong khảo luận Ký sự đi Thái Tây: Phi-Li-Phê Bỉnh (1759-1830?), Phạm Phú Thứ (1821-1882) viết năm 2000, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Chân Quỳnh đã đặt câu hỏi: Phạm Phú Thứ hay Bùi Viện đã biến Ninh Hải ra Hải Phòng? Mặc dù đi đến kết luận rằng đây vẫn là vấn đề tồn nghi nhưng Nguyễn Thị Chân Quỳnh đã có hướng tiếp cận rất đúng khi so sánh thực tế quyền lực của từng người: “Phạm Phú Thứ giữ chức Tổng đốc Hải-dương kiêm Tổng lý nha Thương chính có thể coi là chức quan cao nhất ở ngoài, là người chủ sự từ năm 1874; còn Bùi Viện mãi đến 1876/7 mới sung chức Thương chính Tham biện và Tuần-tải-nha Chánh-quản-đốc (Phan Trần Chúc cho là ngang với chức Tổng trưởng bộ Hải quân) chắc là thuộc cấp của Phạm Phú Thứ. Có thể ông là người thực hiện việc biến Ninh-hải thành thương cảng Hải-phòng nhưng Phạm Phú Thứ là người điều khiển?”. Ở đây, Nguyễn Thị Chân Quỳnh vẫn thận trọng đặt vấn đề theo dạng câu hỏi, nhưng đó chính là sự thật.
Ý tưởng xây dựng thương cảng Ninh Hải tuy được nêu trong Điều 11 Hòa ước Giáp Tuất ký ngày 15-3-1874 niên hiệu Tự Đức thứ 27, nhưng thực chất đây chính là sản phẩm “chất xám” của Phạm Phú Thứ khi ông đề nghị mở cảng ngoại thương ở Hải Yên trong bản tấu năm 1867 niên hiệu Tự Đức thứ 20. Quan trọng hơn, với tư cách quan đầu tỉnh Hải Dương cũng như trên cương vị Tổng lý Thương chính đại thần, Phạm Phú Thứ có cơ hội trực tiếp chỉ đạo thi công công trình xây dựng thương cảng Ninh Hải càng sớm càng tốt để góp phần phát triển kinh tế biển khu vực Bắc Kỳ, trong đó có tỉnh Hải Yên; có cơ hội hoạch định phương án hợp lý thậm chí tối ưu để phân bổ các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực…
Phát triển văn hóa đọc, thực thi chính sách an dân
Trên lĩnh vực văn hóa, Tổng đốc Hải Yên Phạm Phú Thứ chú trọng 2 việc: làm thế nào để có nhiều sách đáng đọc và làm sao để trang bị năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ cho thuộc cấp.
Từng được mở rộng tầm nhìn qua chuyến công du sang Pháp hai năm 1863 niên hiệu Tự Đức thứ 16 và 1864 niên hiệu Tự Đức thứ 17, Phạm Phú Thứ thấu hiểu tầm quan trọng của sách - nhất là sách dịch, càng thấu hiểu tầm quan trọng của tiếng Pháp trong giao lưu văn hóa và quan hệ ngoại thương. Vì vậy, Phạm Phú Thứ chủ trương cho phục dựng nhà in mộc bản Hải Học đường ở Hải Dương đã đóng cửa từ nhiều năm trước.
Phạm Phú Thứ biết rằng Hải Học đường - gắn liền với tên tuổi quan Trấn thủ trấn Hải Yên Trần Công Hiến người Quảng Ngãi - là cơ sở ấn loát đầu tiên ở tỉnh Hải Dương nói riêng và là nhà in sách hiếm hoi của cả nước nói chung. Phạm Phú Thứ nhận thức được công lao của người tiền nhiệm và quyết không để quá khứ thành dĩ vãng, thấy rõ việc Trần Công Hiến thành lập Hải Học đường từ thời vua Gia Long không chỉ giúp Hải Dương lưu giữ được những tác phẩm văn chương/sử học có giá trị, mà còn là tiền đề quan trọng để Phạm Phú Thứ nhanh chóng phục hồi nghề in sách, đẩy mạnh việc tổ chức dịch thuật từ tiếng Anh ra chữ Hán, kịp thời in ấn/xuất bản một số tân thư giá trị từng được ông trình lên vua Tự Đức và được nhà vua khuyến khích in như Bác vật tân biên (khoa học tự nhiên), Khai môi yếu pháp (Phương pháp khai mỏ), Hàng hải kim châm (Kỹ thuật đi biển), Vạn quốc công pháp (Công pháp các nước)…; cũng là cách ông thể hiện khát vọng vươn lên sánh vai cùng thiên hạ.
Tháng 4-1878 niên hiệu Tự Đức thứ 31, Phạm Phú Thứ chủ trương mở trường dạy tiếng Pháp cho những người làm việc tại Nha Thương chính Bắc Kỳ ở Ninh Hải, mỗi tháng học viên được cấp một quan tiền và một phương gạo. Có thể nói, đây là trường dạy ngoại ngữ đầu tiên ở nước ta do một quan chức Nam triều sáng lập nhằm góp phần nâng cao chất lượng công vụ của nguồn nhân lực đang hoạt động trên lĩnh vực thương chính.
Về thực thi chính sách an dân, căn cứ vào những ghi chép của Quốc sử quán Triều Nguyễn trong Đại Nam Liệt truyện Chính biên, có thể thấy ngay khi đến nhiệm sở chưa được bao lâu, Thự Tổng đốc Phạm Phú Thứ phải lo chỉ đạo giải quyết hậu quả vỡ đê Văn Giang ở tỉnh Hưng Yên (theo thống kê từ năm 1863 niên hiệu Tự Đức thứ 16 đến năm 1886 niên hiệu Tự Đức thứ 39, đê Văn Giang vỡ tới 18 lần).
Quốc sử quán Triều Nguyễn trong Đại Nam Liệt truyện Chính biên - phần nói về Phạm Phú Thứ, còn ghi nhận nhiều công lao khác của ông trong việc an dân.
Xét toàn bộ quá trình thực thi công vụ gần 40 năm của Phạm Phú Thứ (được bổ làm Biên tu năm 1844 niên hiệu Thiệu Trị thứ 4), ông được người đứng đầu nước Đại Nam vào năm 1881 niên hiệu Tự Đức thứ 34 ghi nhận công lao chủ yếu đối với Hải Dương và Quảng Yên trong hơn 6 năm (từ năm 1874 niên hiệu Tự Đức thứ 27 đến năm 1880 niên hiệu Tự Đức thứ 33) trên cương vị Tổng đốc kiêm Tổng lý Thương chính đại thần.
BÙI VĂN TIẾNG