.

Tinh thần khởi nghiệp - động lực phát triển xã hội

.

1.

Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, đã xuất hiện những bài viết về tinh thần khởi nghiệp. Nhân dịp đón Xuân Ất Mùi 2015, xin có đôi điều bàn về chủ đề này nhằm tiếp nối nội dung “Tinh thần doanh nghiệp” tôi đã viết cho số Đà Nẵng Xuân Giáp Ngọ 2014.

Tinh thần khởi nghiệp của người Việt Nam cần phải hình thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong ảnh: Niềm vui ngày ra trường. Ảnh: Ông Văn Sinh
Tinh thần khởi nghiệp của người Việt Nam cần phải hình thành ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong ảnh: Niềm vui ngày ra trường. Ảnh: Ông Văn Sinh

Tinh thần khởi nghiệp (entrepreneurship) còn được gọi là tinh thần doanh nhân khởi nghiệp hay tinh thần kinh doanh, là một thuật ngữ xuất hiện khá lâu trên thế giới. Theo một số nhà nghiên cứu, những doanh nhân có tinh thần khởi nghiệp thật sự phải là những con người mà bản thân họ có hoài bão vượt lên số phận, chấp nhận mạo hiểm với tinh thần sáng tạo và đổi mới; đồng thời, sẵn sàng nhận lấy rủi ro, dũng cảm gánh chịu những tai họa nghiêm trọng về vật chất và tinh thần khi làm ăn thua lỗ.

Trong tác phẩm “Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp và sự đổi mới, 2011”, nhà kinh tế học Mỹ Peter F. Drucker cho rằng, tinh thần doanh nhân khởi nghiệp được hiểu là hành động của doanh nhân khởi nghiệp - người tiến hành việc biến những cảm nhận nhạy bén về kinh doanh, tài chính và sự đổi mới thành những sản phẩm hàng hóa mang tính kinh tế.

Như vậy, hầu hết các tác giả đều thống nhất khái niệm “tinh thần khởi nghiệp - tinh thần kinh doanh” (entrepreneurship) gắn với khái niệm “doanh nhân” (entrepreneur). Và gần đây cũng có một khái niệm khởi nghiệp khác ra đời, đó là quốc gia khởi nghiệp (start-up nation). Quốc gia khởi nghiệp được hiểu như là tinh thần khởi nghiệp của các quốc gia non trẻ mà bản thân nó lúc nào cũng trong giai đoạn khởi nghiệp, là nơi có rất nhiều doanh nhân khởi nghiệp như Israel, Singapore  hay Hoa Kỳ...

Những yếu tố cốt lõi của tinh thần khởi nghiệp là: khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh; thái độ chấp nhận rủi ro; và ý tưởng sáng tạo - đổi mới. Từ 3 yếu tố cốt lõi trên, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một số đặc trưng của một tinh thần khởi nghiệp là: (1) Hoài bão và khát vọng kinh doanh; (2) Khả năng kiến tạo cơ hội kinh doanh; (3) Độc lập và dám làm, dám chịu trách nhiệm; (4) Phát triển ý tưởng sáng tạo và đổi mới phương pháp giải quyết vấn đề; (5) Bền bỉ và dám chấp nhận thất bại và (6) Đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội.

2.

Có thể nói quốc gia có tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ nhất trên thế giới là Israel. Họ đã rút ra ba nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khởi nghiệp thành công là: chính sách của chính phủ; sự năng động của công dân; và sự đóng góp của môi trường quân đội. Yếu tố đóng góp sâu sắc, căn cơ nhất cho tinh thần khởi nghiệp của Israel chính là nền giáo dục, là quá trình tạo dựng “gene cơ bản” cho tinh thần khởi nghiệp trong mỗi công dân. Người Israel cho rằng, ý chí khởi nghiệp, sáng tạo hình thành ngay từ giai đoạn sơ sinh. Trẻ con được khuyến khích sống với thiên nhiên, phát triển tính tò mò, tìm hiểu mọi thứ trong thiên nhiên và cuộc sống.

Ở trường mẫu giáo, trẻ con được tập làm quen với việc kết bạn, tạo các mối quan hệ. Ở tuổi thiếu nhi, học cách sống tự lập, chịu trách nhiệm với bản thân, với việc mình muốn làm; học cách chấp nhận rủi ro, thất bại. Lên tuổi thiếu niên, xây dựng tình đồng đội, bạn bè; học cách hành động nhanh, táo bạo; chiếm lĩnh mục tiêu, đương đầu khó khăn, nguy hiểm. Đến tuổi 17 - 18, hiểu và thực hành sứ mệnh với tồn vong của đất nước và dân tộc bên cạnh trách nhiệm với gia đình. Bước vào quân đội từ 18 tuổi, các em học thực hành trách nhiệm với Tổ quốc, hiểu sâu một điều. Người Israel kính trọng những người làm nhiều hơn trách nhiệm mà họ được giao.

“Gene khởi nghiệp” được tạo rất sớm và lớn dần lên trong cái nôi xã hội thân thiện với khởi nghiệp. Thực tế ở Israel (và các nước phát triển), nhiều người, dù không phải tỷ phú vẫn sẵn sàng bỏ tiền ủng hộ khởi nghiệp, coi như đó là đóng góp cho phát triển kinh tế, cho tương lai chính mình. Xã hội thì luôn có sẵn đội ngũ chuyên gia nhiệt tình, hết lòng giúp đỡ khởi nghiệp. Chính phủ có chính sách rõ ràng ủng hộ khởi nghiệp: đầu tư, đồng hành, tạo môi trường liên kết và có những chương trình khuyến khích khởi nghiệp trong trường học, trong các định chế xã hội. Các doanh nghiệp lớn, đã thành danh luôn tìm cách kết nối, khuyến khích, sử dụng dịch vụ của các công ty khởi nghiệp. Tất cả những yếu tố ấy đã tạo nên một tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ tại đất nước Israel.

* Theo báo Economist, Singapore là một trong ba vùng đất hứa của tinh thần khởi nghiệp hiện nay trên thế giới (hai quốc gia còn lại là Israel và Đan Mạch). Trước đây, Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu đã sớm nhận ra tinh thần khởi nghiệp là động lực phát triển xã hội mới và kêu gọi cả đất nước cùng nhau phát triển tinh thần khởi nghiệp nhưng Singapore đã thất bại trong chiến dịch này vì người dân Singapore khi đó chưa thực sự có được văn hóa “thất bại” như người Israel.

Tuy nhiên gần đây, tinh thần khởi nghiệp tại Singapore đã được khơi dậy mạnh mẽ nhờ các chính sách ủng hộ của chính phủ. Nhà trường ở Singapore giảng dạy tinh thần khởi nghiệp, và các đại học thúc đẩy gắn kết việc đào tạo kinh doanh với giới doanh nghiệp.

Đến năm 2008, Singapore cũng đã có Quỹ đầu tư mạo hiểm do chính phủ lập ra, đầu tư mạnh vào các lĩnh vực quan trọng như truyền thông số, công nghệ sinh học, công nghệ làm sạch và lọc nước… đồng thời khuyến khích người dân vốn quen thụ động trở nên năng động hơn. Các chính sách tích cực của chính phủ đã giúp thay đổi văn hóa bảo thủ tại Singapore, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp của thế hệ trẻ trên cơ sở nền tảng của giáo dục và hệ thống luật pháp hỗ trợ cho việc khởi nghiệp.

* Khi nhắc đến nước Mỹ, chúng ta thường nghĩ đến những tập đoàn hùng mạnh, những nhà tỷ phú, hàng trăm nhà khoa học với giải Nobel, những công nghệ hiện đại nhất thế giới… Nhưng cái gì đã tạo nên điều đó cho nước Mỹ? Có rất nhiều yếu tố nhưng tinh thần khởi nghiệp của người Mỹ là một trong những yếu tố quyết định. Để duy trì vị thế dẫn đầu nền kinh tế thế giới, nước Mỹ phải lấy “tinh thần khởi nghiệp” làm lợi thế cạnh tranh chủ đạo.

Thay  vì  coi  trọng  dòng  dõi, địa vị, truyền thống như nhiều quốc gia khác, người Mỹ coi trọng những cá nhân sẵn sàng khởi  nghiệp  và  khởi  nghiệp  thành  công, bất kể cá nhân đó ở địa vị nào trong xã hội, xuất thân từ một khu ổ chuột hay một gia đình thế lực.

Nước Mỹ là xã hội năng động nhất trong đổi mới, họ luôn có nhu cầu thúc bách phải khởi nghiệp để biến những phát minh, sáng chế mới thành hàng hóa. Với mọi doanh nhân thành đạt ở Mỹ, nhiều người đã thử sức và thất bại, nhiều người thất bại nhiều lần mới thành công được và nhiều người đã thành công vẫn tiếp tục sáng tạo và khởi nghiệp những công ty mới.

Trong văn hóa Mỹ mối quan tâm của một cá nhân là quan trọng nhất. Họ tôn vinh những người dám tự làm, tự chịu. Khi họ thành công, họ được ngưỡng mộ như là một nhà khởi nghiệp tài năng, có được sự công nhận vị trí xã hội họ đáng được hưởng. Khi họ thất bại thì điều này được coi là một giai đoạn tạm thời, tự nhiên và cần thiết để rốt cuộc thành công. Vì vậy họ có thể đứng lên và bắt đầu lại.

Điều này làm cho xã hội Mỹ cạnh tranh quyết liệt hơn và thành tích cao hơn. Đây là một động lực rất lớn để tạo nên các công ty mới và của cải. Bên cạnh đó, người Mỹ cũng ưa mạo hiểm và thích phiêu lưu. Họ đầu tư cho ngay cả những “kế hoạch điên rồ nhất”. Nhưng chính vì sự năng động, “sức trẻ trong suy nghĩ” đó mà họ thành công và giàu có. Mỹ là một trong những quốc gia có những quỹ đầu tư mạo hiểm lớn nhất, hoạt động hiệu quả nhất trên thế giới; đây chính là nguồn vốn ươm mầm cho những ý tưởng kinh doanh táo bạo và thành công không chỉ trên nước Mỹ mà trên toàn thế giới.

Từ kinh nghiệm của các quốc gia khởi nghiệp nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng tinh thần khởi nghiệp của các doanh nhân đặc biệt được khơi dậy mạnh mẽ trong những xã hội mà ở đó có nền kinh tế phát triển sôi động, có nền giáo dục khởi nghiệp với nhiều trường đại học và các trung tâm nghiên cứu, có đông đảo đội ngũ lao động trí thức trẻ tuổi, có cộng đồng doanh nghiệp hoạt động đông đảo và có sự nỗ lực của chính quyền nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi.

Nhanh chóng cải cách thể chế theo hướng giảm thủ tục, tránh sách nhiễu, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình khởi nghiệp. Ảnh: THÀNH LÂN
Nhanh chóng cải cách thể chế theo hướng giảm thủ tục, tránh sách nhiễu, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình khởi nghiệp. Ảnh: THÀNH LÂN

3.

Ở đây có một câu hỏi được đặt ra. Vì sao và bằng cách nào, Israel một quốc gia chỉ có gần 8 triệu dân và mới 65 năm tuổi, một đất nước nhỏ bé mà 2/3 là sa mạc, còn lại là đồi núi, 95% diện tích đất nước được coi là khô hạn và không thể canh tác, ngay cả nước ngọt cũng thiếu trầm trọng, không có tài nguyên thiên nhiên, lại bị khối thù địch tôn giáo 350 triệu người bủa vây… nhưng đã tạo ra những nông trang tập thể đầy hoa giữa sa mạc khô cằn, đã sinh ra rất nhiều chủ nhân Nobel, khoa học gia, kỹ nghệ gia lỗi lạc, thương gia đại tài… kiểm soát những lĩnh vực then chốt của thế giới? Điều đáng suy ngẫm là dân số nước ta đông hơn Israel gần 11 lần, diện tích lớn hơn 12 lần, nhưng GDP đầu người lại thấp hơn họ đến 22 lần.

Với đất nước chúng ta hiện nay, có thể thấy rằng trong dòng máu Việt đã từng có các tố chất của một tinh thần khởi nghiệp nhưng đang bị mai một. Ở nước ta, hệ thống giáo dục chưa chú trọng việc khơi dậy tinh thần khởi nghiệp cho thế hệ trẻ. Học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học chưa được trang bị những nguyên lý cơ bản về kinh tế học và tiếp cận thực tiễn về kinh doanh, nên phần lớn học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học, thậm chí không ít sinh viên sau khi tốt nghiệp đại học vẫn chưa có ý niệm như thế nào là sự nghiệp làm chủ. Hơn nữa, các chương trình đào tạo thường hướng sinh viên trang bị kiến thức và động cơ để trở thành người làm thuê.

Một ví dụ sinh động là vừa qua báo chí đưa tin một lớp học 12 chuyên ở Hà Tĩnh có 45 học sinh thì tất cả đều muốn trở thành cán bộ Nhà nước. Một câu chuyện nhỏ nhưng cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Trong khi đó tinh thần làm chủ hầu hết được khởi nguồn từ những con người lăn lộn thực tiễn, ít có cơ hội học hành. Điều này dẫn đến thực trạng là phần lớn những người khởi nghiệp ở Việt Nam có trình độ học vấn thấp, còn đối với những người lẽ ra cơ hội khởi sự kinh doanh thành công lớn với trình độ cao hơn lại hướng đến việc đi làm thuê. Đây là một đặc điểm riêng có của nước ta, một trở lực lớn cho quá trình hình thành tinh thần khởi nghiệp thật sự mang lại hiệu quả mong muốn.

4.

Xây dựng tinh thần khởi nghiệp của người Việt Nam như thế nào? Hiện nay, môi trường khởi nghiệp Việt Nam còn rất non trẻ so với thế giới nhưng chúng ta vẫn có nhiều tiềm năng để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp một cách mạnh mẽ: dân số còn đang ở thời kỳ vàng, nền kinh tế đang có những dấu hiệu phục hồi, hơn nửa triệu doanh nghiệp đang hoạt động và hàng trăm trường đại học, trung tâm nghiên cứu được thành lập trên khắp cả nước. Tuy nhiên vấn đề là chúng ta đang thiếu những giải pháp căn cơ về đổi mới nền giáo dục, về giải pháp chính sách từ chính phủ và các cấp chính quyền địa phương cũng như việc tạo dựng văn hóa khởi nghiệp, văn hóa “thất bại” cho giới trẻ.

Trước hết, cần phải hình thành tinh thần khởi nghiệp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Bài học từ các quốc gia trên thế giới cho thấy, ý chí tự làm chủ của con người phải được tôi luyện trong hệ thống giáo dục và xã hội ngay từ khi còn nhỏ. Vì vậy, việc cải cách hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học theo hướng gắn giáo dục-đào tạo với hoạt động thực tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc đẩy văn hóa khởi nghiệp là điều kiện tiên quyết để bản thân mỗi người hình thành ý chí tự thân lập nghiệp. Đồng thời, cần xây dựng chương trình, lộ trình cụ thể để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp cho người dân nói chung trong các định chế xã hội.

Thứ hai là cần có các chính sách nhất quán và đồng bộ từ các cấp chính quyền, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động khởi nghiệp. Hiện nay, các mô hình hỗ trợ khởi nghiệp tại Việt Nam vẫn còn thiếu và yếu. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê thì năm 2014, số lượng các doanh nghiệp khởi nghiệp được thành lập gần 75.000 - cao hơn năm 2013; nhưng cũng trong năm này, đã có khoảng 68.000 công ty khởi nghiệp ngừng hoạt động. Điều này chứng tỏ tinh thần khởi nghiệp của giới trẻ Việt Nam, thị trường khởi nghiệp Việt Nam đang có sức sống và tiềm năng phát triển nhưng vẫn còn thiếu sự đầu tư đúng mức và chính sách hỗ trợ cần thiết từ chính quyền và xã hội.

Thứ ba là trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, đang có dấu hiệu phát triển thiếu bền vững, khu vực kinh tế Nhà nước đã bộc lộ sự kém hiệu quả, đóng góp của doanh nghiệp FDI vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế nước nhà còn nhiều vấn đề phải xử lý. Đã đến lúc các chính sách thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế nên lấy khu vực kinh tế tư nhân trong nước làm trọng tâm. Đồng thời nhanh chóng cải cách thể chế theo hướng giảm thủ tục, tránh sách nhiễu, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho quá trình khởi nghiệp.

Một khi tinh thần khởi nghiệp, văn hóa khởi nghiệp nở rộ trong các tầng lớp dân cư, đặc biệt là trong thế hệ trẻ thì nó sẽ thực sự trở thành động lực mạnh mẽ nhất, chủ yếu nhất thúc đẩy phát triển nền kinh tế, phát triển xã hội, đưa đất nước tiến lên.

VÕ DUY KHƯƠNG

;
.
.
.
.
.