Sáng tác

Thơ: Lưu Trùng Dương

17:47, 21/11/2014 (GMT+7)

Trong những ngày cuối đời, nhà thơ Lưu Trùng Dương vẫn luôn trăn trở với thơ, ông tâm sự  “Tôi chẳng hề mơ làm nên ngọc quý, mà chỉ muốn viết những bài thơ có ích cho đời”. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, thơ Lưu Trùng Dương đi cùng hai cuộc kháng chiến của dân tộc, là hành trang của những người lính, “Thơ ông có một thời đi vào lòng người, như nước đến với cơn khát, cơm đến với cơn đói, thuốc đến với cơn đau…” (Đông Trình).

 

Kể từ tác phẩm đầu tay “Tập thơ của người lính” xuất bản năm 1949, ông đã có trên 65 năm sáng tác từ thơ, trường ca, đến văn xuôi. Vinh dự nhận Giải thưởng Phạm Văn Đồng lần thứ nhất (1950-1951) và Giải thưởng Nhà nước về Văn học – Nghệ thuật.

Nhân lễ tưởng niệm 49 ngày ông về cõi vĩnh hằng do Liên hiệp các Hội Văn học-Nghệ thuật TP. Đà Nẵng tổ chức vào ngày 22-11-2014, Đà Nẵng Cuối tuần trân trọng giới thiệu chùm thơ của ông, như một lời tri ân với những đóng góp của nhà thơ Lưu Trùng Dương đối với nền văn học cách mạng Việt Nam.

(Nguyễn Nho Khiêm giới thiệu)

Chuyện  tình chim Hải âu

Ngày xưa,
Trên  một  hòn  cù  lao  xanh  biếc
Có  hai  người trẻ tuổi yêu  nhau
Người con gái có làn da  trắng  tuyết
Môi  hồng  tươi  như một đóa anh  đào
Và chài  lưới  rèn cánh  tay gang thép
Hồn chàng trai tựa biển rộng trời cao.

Họ yêu nhau thề sống chết cùng  nhau:
“Có biển nọ có đất này chứng giám
Dẫu muối biển một ngày kia không mặn
Hương tình ta mãi mãi vẫn đậm  đà
Dù  trời yên hay biển nổi phong ba
Ta  vẫn  bên  nhau  như  buồm  với  lái”.
Như  hạt  móc  đậu  trên  cành  run  rẩy
Thương ngày  vui  của  họ  quá  mong  manh!
Bão đến rồi:
Những  quyền  lực  hôi  tanh
Bắt  nàng  phải  đem  thân  hầu  chúa  đất
- Nhưng  tình  yêu  không  cúi đầu  khuất  phục
Chàng  trai  mang  mối  tình  hận  ra  đi
Và  cánh  buồm  chàng  theo  bóng  mây  bay…

Người con gái  cũng  xuống  thuyền  vượt  biển
Đi, đi  mãi  không  tính  bờ  nhớ  bến
Đi, đi hoài  tìm  chẳng  thấy  người  thương
Lúc  xuôi tay  hồn  nàng  đọng trên  buồm
Thuyền  chìm xuống  trong  một  chiều  hấp  hối.
Một  cánh  chim  như  cánh  buồm  vời  vợi
Bỗng  chập  chờn như  hiện  giữa  chiêm  bao
Nàng  đã  hóa  thành  chim  hải  âu
Bay tìm  ai  trên sóng  biển  bạc  đầu…

 “Nàng  đã  hóa  thành chim  hải  âu
Bay  tìm  ai  trên  sóng  biển  bạc  đầu”…
Người  thủy  thủ  trầm  ngâm  nghe  chuyện  kể
Xót  thương  người  con gái  hóa  thành  chim:
“Ờ, ngày  xưa  họ  cũng  giống  như  mình
Họ  cũng  yêu  nhau  chung  tình  biết  mấy
Nhưng  thuở  ấy  cuộc  đời  đầy  ngang  trái
Đè  nặng  tình   yêu  bằng  trăm  thứ  gông  xiềng”.

Một ánh  mặt  trời  trong  mắt  lóe  lên
Lòng  thủy  thủ  bỗng  chan  hòa nắng ấm
Anh  muốn  nhắn  ai  qua  làn  gió mặn:
“Em  ơi,  bây  giờ  ta  yêu  nhau
Em  sẽ  không  thành  chim  hải  âu
Cánh  đau  khổ  vật  vờ  trên  sóng  lớn.
Nếu  thành  chim, ta  sẽ  thành  chim  phượng
Với  chim  hoàng  bay  trọn  kiếp  bên  nhau
Hay  đôi  ta  sẽ  chắp  cánh  bồ  câu
Thêu  chữ trắng  trên  nền  trời  mơ  ước
Ca ngợi  những  tình  yêu  không  trói  buộc
Không  đọa  đày  của  thế  hệ  chúng  ta...”
*
Một áng mây  hồng  theo  cánh  chim  xa
Người  thủy  thủ  thấy  tình  yêu  mọc  cánh .
                          
                  Vịnh Hạ Long, hè 1960

Máu

Tôi mất máu vì vết thương phải mổ,
Người ta truyền máu cho tôi
Dù tỉnh hay mê làm sao biết rõ
Máu của những ai đã cứu sống đời tôi?

Khi tỉnh dậy, tôi ngỡ ngàng tự nhủ:
Sao máu khô không còn màu đỏ
Chảy tới tim rồi máu lại đỏ tươi?...

Người thầy thuốc bảo tôi:
“Bệnh viện chúng tôi đang thiếu máu,
Truyền máu cho anh, chỉ một tuần thôi,
chúng tôi phải dùng tới ba loại máu:
Hôm kia máu Nhật,
hôm qua máu Mỹ
và hôm nay là máu Đức…”
Thế kia ư?
Tôi vừa nhận vào cơ thể
ba dòng máu của châu Á, châu Âu, châu Mỹ,
Từ hôm nay
máu của tôi đâu phải của một người?
máu trong mình có còn của riêng tôi?
có còn riêng của một giống nòi?
Dòng máu ấy phải chăng còn thuần khiết?
Hay đã có phần hỗn hợp?
Và ở đâu trên quả đất này
Một dòng máu hoàn toàn thuần nhất?...

Tôi chợt nghe dòng máu chảy trong tôi
nói một điều giản dị
mà con người đã vô tình
hay cố ý
lãng quên:
Máu của mọi giống nòi vẫn có thể hòa chung,
Chỉ xung khắc khi không cùng nhóm máu…

          Bệnh viện Việt Xô, tháng 4-1974

Hành quân trong mưa bão

Xuyên mùa mưa Trường Sơn
Ta đi trong bão táp
Nước trên trời, dưới đất,
Nước ào ào suối khe
Nước vây phủ bốn bề
Nước đầm đìa vai áo
Nước thấm vào bao gạo
Nước chảy dài xuống lưng
Tưởng như cả dãy rừng
Bỗng hóa thành gió, nước.

Dìu nhau qua suối lũ
Ta ghì siết tay nhau
Thân cây ngã làm cầu
Mây dài làm tay vịn
- Em cứ đi bình tĩnh
Dù cầu treo đung đưa
Dù sóng nước xô lùa
Dưới chân ta cuồn cuộn
Em hãy nhìn thẳng hướng
Hãy đặt vững bàn chân
Trên nhịp cầu yêu thương
Của anh em đồng đội.

Ta trèo lên dốc núi
Nước xói mòn dưới chân
Nghe thác đổ ầm ầm
Biết dốc dài sắp hết,
Máu chảy ra từng vệt
Hòa tan trong nước mưa
Vết màu này chưa khô
Vết máu kia đã ứa
Vì móc vào tre nứa?
Hay vắt cắn, gai cào?

Đang vượt lũ rừng sâu
Bỗng nghe tin bão lụt
Vùng đồng bằng ngập nước
Chạnh nghĩ tới đồng bào
Dưới ấy giờ ra sao
Ơi mẹ già, em nhỏ?
Ước gì con suối lũ
Chỉ cản đường ta thôi
Không tràn xuống vùng xuôi
Để bà con đỡ khổ!...

Mưa tuôn trào thác lũ
Hay lòng ai dâng tràn?
Đi trong mưa Trường Sơn
Nghe đời bao tiếng gọi…

Trường Sơn, tháng 11-1973

 

Điệp khúc sông Hàn

Cửa sổ nhà em soi bóng sông Hàn
Tiếng sóng vỗ dạt dào như nỗi nhớ.
Trường anh học dẫu không cùng một phố
Vẫn chung màu phượng đỏ với trường em…
*
Ngỡ phải xa nhau trong tiếng súng rền,
Ta lại gặp nhau trên đường kháng chiến.
Thành phố nhớ thương trong ta hiển hiện
Là nấm mồ của mẹ trong ánh lửa sông Hàn

Và cô nữ sinh mới gặp gỡ đôi lần
Sao đã thấy thương thầm anh bộ đội?
Hai tiếng quê hương khiến chúng mình gần gũi
Như điệp khúc sông Hàn hát mãi với hồn ta…
*
Khi đến với sông Hồng ta bỗng nhận ra nhau.
Ơi sóng biếc sông Hàn trong mắt em buổi đó!
Anh nắm tay em: nắm cả mùa hè rực rỡ
Bên Hồ Tây, - màu phượng đỏ bỗng rưng rưng…
*
Ta có nhau rồi: đời bỗng đẹp hơn!
Trời lồng lộng một màu xanh hy vọng!
Anh náo nức đi xa, làm thơ và cầm súng,
Như bức tranh em vẽ màu sắc rất hồn nhiên
Thơ anh ngân trong gió núi mưa ngàn
Nghìn dặm hành quân những năm đánh Mỹ
Giữa rừng Lào được tin em sắp đẻ,
Viết cho em trong ánh lửa chiến trường
*
Con ba tháng, anh lại vào đường Chín,
Em sơ tán về đâu, - tay dắt tay bồng?
Trong chiến thắng có lòng em trọn vẹn
Rừng Khe Sanh thương nhớ hóa mênh mông!...
*
Khi Hà Nội thành Điện Biên rực lửa
Ta lại cùng chia sẻ mọi gian nan
Đêm đứng ngắm pháo đài bay bốc cháy
Thấy tình yêu ta góp ánh hào quang…

Nhớ những ngày đói cơm, thiếu muối giữa Trường Sơn
Mùa đông lạnh băng mình qua suối lũ…
Vẫn nghĩ thương em bội phần gian khổ:
Em một mình nuôi dạy cả hai con!
*
Nhớ những ngày xa Tổ quốc vời vợi chờ mong!
Nhớ những lúc anh đau, em ngồi canh giấc ngủ
Anh như sống trong mơ, anh tưởng mình đang thở
Bằng hơi thở của em, lồng ngực của em…
*
Xa cách mấy mươi năm, ta về với sông Hàn
Trời quê hương vẫn xanh như thuở nhỏ
Ta lại sánh vai nhau trên bến Bạch Đằng
Và phượng đỏ, như trái tim ta, mỗi mùa thêm thắm đỏ…

Bờ sông Hàn, ngày 9-1-1986

LƯU TRÙNG DƯƠNG

.