Biểu tượng rắn trong tâm thức văn hóa Việt

.

Biểu tượng, hiểu một cách đơn giản nhất, là “sự phóng chiếu” bức tranh văn hóa dân tộc và dĩ nhiên nó là thành tố không thể thiếu cấu thành bản sắc văn hóa. Nhân dịp năm mới Ất Tỵ 2025, xin góp đôi lời nhàn đàm về biểu tượng “rắn” trong tâm thức người Việt xưa và nay.

Rắn và các danh xưng trong tiếng Việt

Tiếng Việt có nhiều từ ngữ để định danh loài rắn: rắn hổ, hổ mang, rắn lục, rắn nước, rắn mãng xà, rắn nập nống, rắn lồng, rắn học trò, hổ lác, hổ hèo, hổ hành, hổ ngựa, hổ sậy, hổ mây, hổ bướm, rắn cạp nia, rắn cạp nong, … Trong ngôn ngữ dân gian, người Việt ý niệm hóa loài rắn qua các danh xưng: rắn, trăn, chằn tinh, giao long, thuồng luồng, mãng xà, rồng. Chỉ các danh xưng này mới trở thành biểu tượng văn hóa.

Trong các danh xưng trên, rắn, trăn được gọi tên một cách cụ thể, trực quan, còn rồng, thuồng luồng, giao long, mãng xà, … đều được ý niệm hóa bằng các danh xưng mơ hồ, trừu tượng. Về mặt ngữ nguyên, trăn, rắn có thể được phục nguyên bằng quá trình biến đổi ngữ âm: *thlăn/tlăn > trăn > rắn > thằn lằn, chằn, … và có thể chỉ là sự biến âm của rắn mà thôi. Về mặt văn hóa, tất cả các con vật trên đều giống nhau về hình dáng và tính khí (thân dài, hung dữ), môi trường cư trú (thường gắn với nước) và đặc biệt thường được ý niệm hóa bằng hình tượng “thủy quái”, gắn với nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Điều này phản ánh tín ngưỡng thờ thủy thần - thần rắn của người Việt cổ.

Họa sĩ Lê Trí Dũng bên những tác phẩm tranh rắn của mình.           Ảnh: vietnam.vnanet.vn
Họa sĩ Lê Trí Dũng bên những tác phẩm tranh rắn của mình. Ảnh: vietnam.vnanet.vn

Từ ngôn ngữ đến văn hóa hay từ danh xưng đến biểu tượng, các từ ngữ đó phải trở thành các word - symbols (từ - biểu tượng), tức có tính biểu trưng hóa. Cử động của đầu rắn làm cho người ta liên hệ đến cơ quan sinh dục, có lẽ đây là cơ sở biểu trưng cho sự mắn đẻ, các nghi lễ cầu thai. Hay loài rắn có đặc tính lột da, do vậy nó thường biểu trưng cho sự tái sinh, bất tử, dù đó chỉ là quan niệm dân gian. Đây cũng là những ý niệm gốc để chúng ta bàn luận về tính biểu trưng của loài rắn trong tâm thức văn hóa Việt.

Biểu tượng rắn trong tâm thức người Việt

Tục thờ rắn là một trong những tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt cổ; rắn “là thần của nước khởi nguyên, nó là thần của tất cả các loại nước (Jean Chevalier, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, NXB Đà Nẵng, tr.764). Người Việt thường lập miếu, đền, đình ở gần nguồn nước như: các bến sông, cửa sông, các suối, khe để thờ rắn như một vị thủy thần. Người Việt còn xem rắn là vật tổ. Rắn được coi là tổ họ, là gốc, là tiền thân của rồng - giống nòi của cha ông. Từ đó rắn rồng, rồng rắn luôn đi đôi thành một cặp trong văn hóa Việt. Rồng, rắn là hai loài vật được liên tưởng nhiều khi nói đến vấn đề nhân sinh. Chẳng hạn: “Vóc rồng thì để phần vua, bao nhiêu vải rắn thì lừa cho dân”; “Lấy chồng thì phải theo chồng, chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo”; “Rồng rắn lên cây, có cây núc nác, có nhà hiển vinh”.

Rắn là biểu tượng đa nghĩa, đa diện, luôn đồng hành tồn tại các mặt đối lập, vừa là hiện thân cho tâm hồn hạ đẳng, cho cái tâm tăm tối với tính dữ dằn, hung hãn lại vừa là hiện thân cho cái thiện, cái đẹp với những biểu hiện nhân tính, biết trả ơn, có tình có nghĩa. Những mặt đối lặp của biểu tượng rắn được thể hiện rất rõ trong các truyền thuyết dân gian. Hình tượng con rắn hung tợn hoặc ác tâm, chuyên làm hại dân lành, phá phách đời sống của nhân dân trong Rắn báo oán, Ông Dài ông Cộc hay là sự tích thần sông Kỳ Cùng, Rắn cụt đuôi, Cây đa và cây lội. Chúng ta cũng bắt gặp hình tượng con rắn với bản thể thiện nhân từ, xả thân cứu dân lành, đầy tiết nghĩa trong truyền thuyết trong Sự tích đầm Mực, Họ Hà và con chim quốc, Bà Khó (Thằng nghèo).

Trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ, rắn thường được liên tưởng đến cái xấu xa: “Ngoằn ngoèo như rắn bò”, “Thẳng như rắn bò”, “Lừ đừ như hổ đất”, “Len lét như rắn mùng năm”, “Oai oái như rắn bắt nhái”.  Biến thể của rắn là “chằn” thì cũng chẳng mang hàm ý gì tốt đẹp. Nó thường được liên tưởng đến một thứ lực gây hại, xấu xa. Người Việt thường nói “Dữ như chằn” hay “Dữ như bà chằn”. Những kẻ hay bịa đặt, ba hoa, chẳng được tích sự gì lại bị ví von qua hình ảnh “Vẽ rắn thêm chân”, “Vẽ rồng vẽ rắn”; những người tâm địa xấu xa, giả tạo lại bị ám chỉ qua các hình ảnh “Hang hùm, miệng rắn”, “Ấp rắn trong lòng”, “Khẩu Phật tâm xà”, “Rắn đổ nọc cho lươn”.

Những người hung ác, hiểm độc như rắn rết thì nên tránh xa, không thể cùng chung sống như một quy luật điều hiển: “Rắn rết bò vào, cóc nhái bò ra”. Đối phó với cái xấu giống như cách đối phó với rắn dữ. “Đánh rắn đánh bằng đầu”. Người xấu thường được che đậy bằng những mánh khóe tinh vi như con rắn tinh ranh biết che cái đầu của mình vậy. Sống ở đời đừng có nuôi dưỡng kẻ xấu, bởi “Rắn đến nhà không đánh thành quen”, có ngày “Rắn đổ nọc cho lươn”, đổ lỗi, gán ghép trách nhiệm cho người khác. Người xưa từng nói “sống gửi, thác về”, “rắn lột da, người lột xác”, đời người không ai vĩnh viễn, sống làm sao đó mà để lại tiếng thơm ngàn đời cho hậu thế.

Trong tâm thức Việt, rắn vừa là biểu tượng văn hóa hiện thân của cái xấu, điều dữ, vừa ẩn chứa trong nó sự bao dung, cái nhân tình nhân tính. Con rắn, một con vật thấp hèn, được người Việt gọi là “ông”, là “bà” trong “Rắn ông rắn bà”, “Ông Dài ông Cộc”; là “ngài” trong “ngài rắn”, là “thần” trong “thần xà”, là “vương” (vua) trong “mãng xà vương”. Phải chăng đó cũng là lối tư duy “nước đôi” đầy tính nhân văn và khoan dung của người Việt truyền thống tự ngàn xưa.

PGS.TS TRẦN VĂN SÁNG

;
;
.
.
.
.