Việt Nam có tiềm năng điện gió lớn nhất Đông Nam Á, bằng 200 thủy điện Sơn La

.

Theo ông Trương Đức Trí, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, ngay sau hội nghị COP 26, Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư, nhiều tập đoàn năng lượng lớn trên thế giới mong muốn nghiên cứu, phát triển điện gió ngoài khơi.

Hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển điện gió ngoài khơi. Ảnh: TTXVN
Hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển điện gió ngoài khơi. Ảnh: TTXVN

Đến nay, nhiều nhà phát triển dự án trong và ngoài nước đã gửi hồ sơ đề xuất đo gió, khảo sát địa chất, địa hình trên biển đến các cơ quan quản lý Nhà nước của Việt Nam xem xét, chấp thuận.

Cũng theo ông Trương Đức Trí, tại cuộc họp lần thứ 3 Ban chỉ đạo triển khai thực hiện các cam kết của Việt Nam tại COP 26, trên cơ sở báo cáo của Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Công Thương, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan liên quan tổng hợp báo cáo Chính phủ về những bất cập trong quy định hiện hành để tạo thông thoáng cho phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có hoạt động đo gió, quan trắc, điều tra khảo sát, đánh giá tác động môi trường trên biển, phục vụ phát triển điện gió ngoài khơi. Điều này cho thấy quyết tâm của Chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu phát thải ròng bằng “0” đến năm 2050.

Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tài nguyên và môi trường đã chủ động, tích cực phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương liên quan để thẩm định, góp ý hồ sơ đề xuất đo gió. Quá trình xử lý hồ sơ cho thấy cơ sở pháp lý, đặc biệt là quy định kỹ thuật cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện một cách đồng bộ nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong việc phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái biển, hải đảo.

Về các vướng mắc hiện nay, theo Cục Quản lý khai thác biển và hải đảo, công nghiệp phát triển điện gió ngoài khơi là lĩnh vực mới không chỉ đối với Việt Nam mà còn cả trên thế giới. Vì vậy, quy định pháp luật về lĩnh vực này chưa theo kịp với thực tế là điều khó tránh khỏi, cụ thể Nghị định số 11/2021/NĐ-CP của Chính phủ chưa quy định đầy đủ hồ sơ, tài liệu, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết việc chấp thuận đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển; chưa quy định thời hạn chấp thuận; chưa quy định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân phải gửi báo cáo kết quả khảo sát cho các cơ quan quản lý nhà nước.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đang nghiên cứu, bổ sung các tiêu chuẩn kỹ thuật phục vụ khảo sát điện gió ngoài khơi như tiêu chí lựa chọn nhà phát triển dự án khi có nhiều đề xuất khảo sát trên cùng một vùng biển hoặc các đề xuất có sự giao thoa, chồng lấn hay tiêu chí xác định diện tích biển tối ưu phục phụ khảo sát điện gió ngoài khơi…

Theo ông Phạm Nguyên Hùng, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương), dự thảo Quy hoạch điện VIII đã đề ra mục tiêu phát triển 7 GW điện gió ngoài khơi đến năm 2030, trong đó 4 GW ở phía bắc và 3 GW ở phía nam. Bên cạnh những thuận lợi để Việt Nam phát triển điện gió ngoài khơi như có vùng biển rộng, nhiều khu vực biển có tiềm năng phát triển điện gió cao, thì còn có những vướng mắc cho cả cơ quan quản lý nhà nước và nhà đầu tư, chẳng hạn như hạ tầng truyền tải điện, tiêu chuẩn kỹ thuật phục vụ khảo sát điện gió ngoài khơi hầu như chưa có, quy định về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư các dự án nguồn điện chưa được hoàn thiện.

Ông Phạm Nguyên Hùng cũng cho biết thêm, ở đa số quốc gia phát triển, chính phủ bố trí nguồn lực để thực hiện khảo sát, bên cạnh đó còn tổ chức đấu thầu khu vực biển để nhà phát triển dự án tổ chức nghiên cứu, khảo sát điện gió ngoài khơi. Cách tiếp cận này cũng cần được quan tâm nghiên cứu khả năng áp dụng ở Việt Nam.

Mặt khác, theo ông Hùng, để có cơ sở tổ chức khảo sát điện gió ngoài khơi một cách hiệu quả và bài bản, cần có căn cứ như quy hoạch không gian biển, trong đó có phân vùng khu vực biển cho phát triển điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi; đồng thời cần có các quy định cụ thể để hạn chế tình trạng trong cùng một khu vực biển có nhiều tổ chức thực hiện khảo sát, cũng như không nên có sự giao thoa, chồng lấn trong quá trình khảo sát.

Theo bà Sirpa Jarvenpaa, Giám đốc Quỹ chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á, Việt Nam có tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi, các nhà đầu tư sẵn sàng tham gia cùng thúc đẩy quá trình phát triển loại hình năng lượng tái tạo này. Việc các tổ chức quốc tế đã, đang và tiếp tục đồng hành cùng các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam để tiếp cận, chia sẻ, học tập kinh nghiệm quốc tế để sớm thúc đẩy phát triển điện gió ngoài khơi là rất cần thiết, Quỹ chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á sẵn sàng đồng hành, hợp tác.

Năng lượng gió ngoài khơi là một nguồn năng lượng tái tạo có triển vọng phát triển lớn, có thể lắp đặt các trang trại gió ngoài khơi trên vùng biển rộng lớn. Ưu điểm chính của năng lượng gió ngoài khơi là khả năng tạo ra điện cao hơn vì tốc độ gió trên đại dương thường ổn định hơn và mạnh hơn so với trên đất liền. Ngoài ra, một điểm cộng khác là thực tế không giới hạn các địa điểm ngoài khơi để triển khai trang trại điện gió mà ít hoặc không ảnh hưởng đến xung đột dân cư. Hơn nữa, những tiến bộ gần đây trong công nghệ gió ngoài khơi giúp giảm chi phí vốn, lắp đặt và vận hành.

Theo kết quả khảo sát của chương trình đánh giá về năng lượng cho Châu Á của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam có tiềm năng gió lớn nhất khu vực Đông Nam Á với tổng tiềm năng điện gió ước đạt 513.360 MW, lớn gấp 200 lần công suất của nhà máy thuỷ điện Sơn La và hơn 10 lần tổng công suất dự báo của ngành điện Việt Nam năm 2020. 

Theo số liệu thống kê, hiện nay đã có 130 nước trên thế giới phát triển điện gió. Tổng công suất điện gió của thế giới tăng nhanh trong khoảng 1 thập kỷ gần đây, đến năm 2020 với tổng công suất lên tới 733GW cao gần gấp hai lần so với năm năm 2011. Kể từ năm 2010, hơn một nửa tổng lượng điện gió mới đã được bổ sung bên ngoài các thị trường truyền thống là Châu Âu và Bắc Mỹ, chủ yếu là do sự bùng nổ liên tục ở Trung Quốc và Ấn Độ.

Theo Báo cáo về tiềm năng năng lượng gió, sóng ngoài khơi tại các vùng biển Việt Nam của Tổng cục Khí tượng thủy văn (Bộ Tài nguyên và Môi trường), các vùng biển có khả năng khai thác tiềm năng năng lượng gió tốt nhất là Bình Định đến Ninh Thuận, Bình Thuận đến Cà Mau và một phần vùng biển trung tâm vịnh Bắc Bộ. Đặc biệt, tiềm năng gió đạt ở mức tốt đến rất tốt ở khu vực biển Ninh Thuận đến Bà Rịa-Vũng Tàu với tốc độ gió trung bình năm từ 8m - 10m/s, mật độ năng lượng trung bình năm phổ biến từ 600W đến trên 700W/m2. Tiềm năng năng lượng sóng vùng ven biển Việt Nam thông qua số liệu trích xuất tại 20 điểm ven bờ và các trạm hải văn cũng cho thấy vùng có năng lượng sóng lớn nhất tập trung ở khu vực Trung Bộ (từ Đà Nẵng đến Ninh Thuận) và thấp hơn ở dải ven biển Bắc Bộ và Nam Bộ.

Theo Báo Tin tức

;
;
.
.
.
.
.